K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 3 2020

Tôi yêu quê hương với những hàng nhãn xanh mướt. Ở quê tôi, nhãn mọc trong vườn, trước sân, sau nhà và ngay dọc hai bên con lộ.

Mùa xuân đến mưa bay lất phất, muôn vật như tỉnh giấc, và cây nhãn cũng vậy, nó đang hân hoan trút bỏ những tàn lá cuối đông theo làn gió nhẹ. Nhãn say sưa uống những hạt mưa xuân, xòe ra những chồi, những lá xanh non mịn màng. Và khi đã uống no những giọt mưa thì nhãn bắt đầu đơm hoa. Từng chùm hoa tranh nhau tỏa hương thơm nức, dụ đến hàng đàn ong vờn qua vờn lại. Ngày qua đi, tuần qua đi, hoa nhãn rụng đầy quanh gốc, nhưng trên tán lá lại chi chít những quả nhãn non. Thoạt đầu quả nhãn và cùi chưa phân chia, chỉ một màu trắng. Về sau chia ra hạt, ra cùi và hạt nhãn dần dần đen lại. Vào giữa mùa hè thì quả nhãn chín, từng chùm quả mọng nước, ngọt lịm. Lũ trẻ chúng tôi háo hức tận hưởng vị ngọt của nhãn. Bạn hãy đến đây và thưởng thức đi. Nhưng khi bạn tận hưởng hương vị thơm ngon của quả nhãn thì bạn chớ có quên rằng chính cây nhãn mới là nguồn cung cấp hương vị đó. Cây nhãn cần mẫn, âm thầm làm việc để cống hiến tinh túy của bản thân cho đời. Quả nhãn dùng làm thuốc, hạt có thể chế cồn. Cây nhãn không đòi hỏi đất đai màu mỡ, nước tưới đầy đủ, nó vẫn có thể nay mầm, xanh tươi.

Cây nhãn ơi, tôi rất yêu quý nhãn, yêu quý cái cốt cách của nhãn. Một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần vô tư.

# mui #

16 tháng 3 2020

Nước Việt Nam ta giàu và đẹp, hoa trái bốn mùa mùa nào thức nấy. Tháng tư, tháng năm là mùa quả chín. Lúc ấy, cây xoài cát ông em trồng sai trĩu trịt quả đã vàng ươm.

Cây xoài trồng ở gần giếng, vừa gần nước, vừa lấy bóng mát cho sân giếng. Cây xoài trồng đã lâu từ hồi em còn lẫm chẫm biết đi nay xoài đãxum xuê cành lá. Cây cao hơn nóc nhà bếp, tán rộng phủ lên cả cây na, cây ổi. Gốc cây to bàng cái gầu xách nước. Thân cây màu đen mốc. Lên cao độ ba mét. cây chia làm ba nhánh, dâm nhiều cành lá rườm rà. Lá xoài thon và dài, màu xanh biếc. Ra Giêng, xoài bắt đầu trổ hoa. Hoa xoài màu vàng như hoa cau hay hoa ngâu có mùi thơm rất nhẹ. Tháng hai nắng thêm một ít làm hoa xoài rơi rụng đầy sân giếng để lại trốn cành quả xoài non xanh bé tí như những bóng đòn hạt xoài màu xanh biếc. Thấm thoắt ngày tháng qua mau, nắng hạ về, em ngẩng đầu trông lên cây đã thấy quả xoài bằng hai nắm tay em chấp lại, lúc lỉu đầy cành, đung đưa trước gió. Lúc này, ngoại dùng giấy xi-măng bọc quả xoài lại giữ cho quả xoài chín cây khởi bị chim ăn. Dù thế nhưng lũ chim cũng lũ lượt bay đến. Chúng líu ríu trên cây mổ cả những quả chỉ mới hơi vàng vàng. Ngoại chỉ giữ được những quả gần, thấp mà thôi, còn những quả xa, trên cao thì đành chịu. Sau một hai cơn mưa hạ đầu mùa thì xoài chín. Quả xoài ứng vàng lấp ló trong kẽ lá. Ông hái những quả ngon vào cúng tổ tiên, làm quà cho bà con, hàng xóm còn thì phải bán đi vì xoài thường chín đồng loạt. Những quả cuối vụ còn lác đác trên cành ngoại bọc giấy lại, chờ chín mới hái. Trái xoài chín vàng ươm, cuống còn tươi ngon, da quả lấm tấm nốt nho như rải cát (vì thế nên mới có tên là xoài cát). Thịt xoài ngọt thơm, chắc và dai, hạt xoài dẹt, nhỏ xíu. Gọt một trái xoài chín ăn với xôi nếp hương thì không gì ngon bằng.

16 tháng 3 2020

Nội dung ngắn gọn: Thể hiện sự trân trọng của nhà văn đối với cốm, một món ăn mà thiên nhiên ban tặng cho người dân Việt Nam. Đồng thời nhà thơ đã giới thiệu một món ăn vô cùng độc đáo.

16 tháng 3 2020

Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
a. Nội dung
Tuỳ bút thể hiện nội dung rất phong phú, tự do, không bị khuôn thước vào một mảng đề tài nào. Nhưng những cảnh đẹp quê hương, đất nước, những địa danh du lịch, con người, văn hoá, lịch sử cũng trở thành đối tượng miêu tả của tuỳ bút, gợi cảm hứng với người viết.
Gắn liền với các địa danh là sản vật văn hoá và con người: cốm làng Vòng, người Hà Nội, người Sài Gòn,... Những giá trị văn hoá truyền thống được cô đọng, chắt lọc qua các sản vật và con người đó, đó là niềm tự hào của mỗi địa phương.
Trong bài Một thứ quà của lúa non: Cốm, hình ảnh “Cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng” rất đẹp, tạo nên sự liên hệ mật thiết giữa sản vật và con người: côm gắn liền với vẻ đẹp của người làm cốm. Cái cách cốm đến với mọi người rất duyên dáng và lịch thiệp, vẻ đẹp của con người tôn lên vẻ đẹp của cốm. Cốm là quà tặng của đồng quê.
Cốm là món quà đặc biệt của lúa nếp non. Và chỉ có cốm làng Vòng mới là đặc sản Hà Nội, do bàn tay người làng Vòng làm ra:
Kê Đô làm kẹo mạch nha
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua
Cách ăn cốm cũng thật đặc biệt: phải cảm thụ bằng nhiều giác quan: khứu giác: mùi thơm phức của lúa; vị giác: chất ngọt của cốm; thị giác: màu xanh của cốm.
Tác giả đã khơi gợi cảm giác của bạn đọc về cốm; chứng tỏ sự tinh tế, sâu sắc của tác giả (dùng từ ngữ gợi cảm: “bao bọc”, “nằm ủ” để nói về mối quan hệ tự nhiên giữa lá sen và cốm, tựa như hai linh hồn nương tựa vào nhau, làm tôn lên cái hương sắc thanh quý “cái lộc của trời”).
Cốm vốn là một thứ quà bình dị, chẳng có gì là cầu kì. Ấy thế mà tác giả đã có cái nhìn một cách thấu đáo và thái độ văn hoá khi nói về sự thưởng thức cốm. Đây không phải là cách ăn cho thoả thích, ăn cho no bụng mà là ăn chậm để ngẫm nghĩ từng chút hương vị của cốm, của màu sắc, của tất cả cái xanh non, dịu dàng mềm dẻo ướp trong hương sen. Bài tuỳ bút đã cho thấy cốm là đặc sản của dân tộc vì nó kết tinh hương vị thanh khiết của đồng quê. Cốm là quà quê, thức quà thiêng liêng. Qua đó cho thấy tấm lòng của tác giả đau đáu, trân trọng, giữ gìn giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc. Mỗi sản vật là một truyền thống văn hoá, một thành tựu sáng tạo lao động và sự trân trọng những công sức lao động, thành quả của nghề nông.
Không chỉ nói về nguồn gốc thanh cao, đẹp đẽ của cốm mà Thạch Lam còn ca ngợi giá trị của cốm. Cốm là quà tặng của đồng quê; cốm là đặc sản của dân tộc. Đó là thức quà thiêng liêng, cũng là món quà rất riêng của quê hương đất nước mình.
b. Nghệ thuật
Thể tuỳ bút không cần có cốt truyện mà chỉ có những cảnh, những sự kiện được tác giả sắp xếp theo một trình tự nào đó. Trong tuỳ bút, nhà văn sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ như: nhân hoá, ẩn dụ, so sánh. Dòng cảm xúc miên man và một lối văn giàu ấn tượng, có sức gợi cảm cao đã tạo nên những áng văn mượt mà của Thạch Lam, Nguyễn Tuân,...
Bài tuỳ bút của Thạch Lam diễn tả một vẻ đẹp văn hoá của dân tộc bằng một lời văn giàu chất thơ, nhẹ nhàng, êm ái mà sâu sắc, tinh tế, nhạy cảm và trân trọng. Tác giả cho thấy mình là một người có tấm lòng, một trái tim của người Hà Nội luôn luôn tha thiết và gìn giữ những phong tục tập quán tốt đẹp của cha ông. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, nhiều câu hỏi tu từ ấn tượng và có sức gợi cao.

Bạn tham khảo câu b

I, Mở bài:

– Từ xa xưa, nhân dân ta luôn sống và học hỏi theo những điều tốt đẹp, điển hình là lòng biết ơn.

– Đạo lí đó được thể hiện qua hai câu tục ngữ: "Uống nước nhớ nguồn" và "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây"

II, Thân bài:

1, Giải thích ý nghĩa, hàm ý của hai câu tục ngữ.

– Mượn những hình ảnh rất đỗi quen thuộc: uống nước, ăn quả. Tác giả dân gian đã khuyên nhủ, nhắc nhở chúng ta khi hưởng thụ, sử dụng thành quả của người khác cần phải biết ghi nhớ công lao, biết ơn và báo đáp những người đã giúp ta có được thành quả như ngày hôm nay.

2, Đưa ra các dẫn chứng, lí lẽ để chứng tỏ vấn đề:

– Nhân dân Việt Nam đã lấy ngày 10-3 Âm lịch để bày tỏ lòng biêt ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước. Nhân dân khắp phương đều mở hội tế lễ, rước,…

– Ngày 27/7 hằng năm là ngày thương binh liệt sĩ, nhằm tri ân những người đã có công với Cách mạng trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

– Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.

3, Khẳng định vấn đề: Hoàn toàn đúng đắn.

4, Mở rộng: vẫn còn một bộ phận nhỏ sống bội bạc, vô ơn,…

III, Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề và trích câu:

"Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba"

Nguồn mạng

19 tháng 3 2020

a. Đức tính giản dị của Bác Hồ - Phạm Văn Đồng.

b. Giản dị là lối sống không cầu kì ,không chạy đua theo xu hướng của xã hội mà theo đó là cách sống phù hợp với hoàn  cảnh của mình .Giản dị luôn là lối sống được đề cao. Giản dị được thể hiện qua nhiều phương diện chứ không phải ở một phương diện nào cả ,tiêu biểu như : giản dị trong lối sống,giản dị trong phong cách ăn mặc,giản dị trong việc đối xử với người khác hay giản dị trong lời nói…còn có rất nhiều loại giản dị khác .

Tách trạng ngữ thành câu riêng để nhấn mạnh, chuyển ý hoặc thể hiện những cảm xúc nhất định.

16 tháng 3 2020

Người ta tách trạng ngữ thành câu riêng nhằm mục đích để nhấn mạnh, chuyển ý hoặc thể hiện những cảm xúc nhất định.

k đúng cho mình nha!cần điểm hỏi đáp.

16 tháng 3 2020

Làm việc gì cũng phải kiên trì thì mới có được thành công

chúng ta làm j cũng phải kiên trì thì mới thành công

16 tháng 3 2020

Là: Thể thơ 5 chữ tạo nên cách diễn đạt tình cảm tự nhiên.

tạo nên cách diển dạt tình cảm tự nhiên

20 tháng 3 2020

Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.

Bài làm

   Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

   Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận.

   Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.

   Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha.

   Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại. Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

   Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.

   Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.

   Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.

Đề bài: Phân tích bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Để chứng minh cho vấn đề nghị luận, tác giả đã nêu những dẫn chứng:

- Trong lịch sử: Những trang sử vẻ vang thời Bà Trưng, Bà Triệu,..

-Công lao của các vị anh hùng dân tộc

-Trong hiện tại: mọi lứa tuổi, mọi vùng,mọi tầng lớp đều có chung lòng yêu nước

-Mỗi luận điểm được làm rõ bằng những dẫn chứng cụ thể về những việc làm, hành động của mọi người , mọi giới, mọi tầng lớp nhân dân. Tác giả đi từ những nhận xét bao quát đến những dẫn chứng cụ thể.

16 tháng 3 2020

Thời phong kiến dù chế độ có thối nát, nhưng ai đó đứng lên lật đổ sẽ bị coi là phản tặc, những người
tài giỏi phải dùng mọi cách để nhà vua tự nguyện nhường ngôi. vì thế Nguyễn Huệ phải lấy danh nghĩa phù Lê Diệt Trịnh thì mới hợp lòng dân và ngoại bang cũng không có cớ giúp Lê đánh lại Tây Sơn được.
Mình nói thêm: Thời các chúa Trịnh họ thừa sức lật nhà Lê nhưng họ vẫn phải để cho hợp lòng dân, cho dù nhà Lê lúc đó là bù nhìn thôi.