Nguyễn Thảo Nguyên

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Thảo Nguyên
0
0
0
0
0
0
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Cuộc sống luôn đầy những thách thức và khó khăn, và chúng ta thường không thể kiểm soát những tình huống xảy ra xung quanh mình. Tuy nhiên, điều mà chúng ta có thể kiểm soát là cách chúng ta phản ứng và quản lý cảm xúc của mình trong những tình huống đó. Việc kiểm soát cảm xúc tiêu cực là một bước quan trọng trong cuộc sống, và nó đòi hỏi sự tỉnh táo, ý thức, và ý chí mạnh mẽ.
Một trong những cảm xúc tiêu cực phổ biến nhất mà chúng ta phải đối mặt hàng ngày là sự tức giận. Tức giận có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, từ xung đột trong mối quan hệ đến áp lực công việc và cuộc sống. Việc kiểm soát cảm xúc tức giận đòi hỏi chúng ta phải hiểu và chấp nhận cảm xúc này, nhưng đồng thời phải biết cách thể hiện nó một cách lành mạnh. Thay vì tức giận, chúng ta có thể học cách thấu hiểu và giải quyết mâu thuẫn một cách xây dựng.
Không chỉ tức giận, cảm xúc tiêu cực khác như lo lắng, trầm cảm, và sợ hãi cũng có thể ảnh hưởng đến tinh thần và sức khỏe của chúng ta. Việc học cách kiểm soát những cảm xúc này giúp chúng ta duy trì một tâm trạng tích cực và lành mạnh. Một số phương pháp hữu ích bao gồm thiền định, tập thể dục, và kỹ thuật thư giãn.
Việc kiểm soát cảm xúc tiêu cực cũng đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ xã hội của chúng ta. Khi chúng ta không kiểm soát được cảm xúc của mình, chúng ta có thể tỏ ra căng thẳng, khó chịu và tạo ra sự căng thẳng trong mối quan hệ với người khác. Ngược lại, khi chúng ta biết cách quản lý và thể hiện cảm xúc một cách lành mạnh, chúng ta có thể xây dựng mối quan hệ tốt hơn với bạn bè, người thân, và đồng nghiệp.

Bài 6 Danh sỹ Nguyễn Mộng Tuân từng cảm phục mà hạ bút: “ Gió thổi hây hây mái tóc vàng, người là ông tiên trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho nước từ xưa chưa có bao giờ”. Ông tiên ở đây chính là Nguyễn trãi, chẳng những là nhà thao lược đại tài mà còn là cây bút hết mực tài năng. Nếu văn thơ chữ Hán của Ức Trai là ngọn lửa hừng hực lòng yêu nước thì thơ “ Quốc Âm” lại nhẹ nhàng sâu lắng, đọng lại một tiếng lòng thi nhân mê đắm, trìu mến với cỏ cây tạo vật. Trong đó “ Thuật Hứng – số 24” là một giai phẩm. Điều làm nên đặc sắc của bài thơ chính là chân dung cuộc sống ở làng quê dung dị, mộc mạc với công việc dân dã, từ đó thể hiện tấm lòng “ Ưu dân ái quốc” của nhà thơ. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc. “Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then. Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.” Điểm sáng đầu tiên của bài thơ chính là nhan đề “ Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú của riêng mình. Đây là bài thơ thứ 24 trong chùm thơ Thuật Hứng thuộc “Quốc Âm thi tập” Chỉ bằng 2 chữ nhưng nhan đề bài thơ đã phần nào hé lộ cho người đọc chủ đề của tác phẩm: Đó là hoàn cảnh và cuộc sống sinh hoạt ở nơi thôn ấp, nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên. Qua đó bộc lộ một tấm lòng trung với nước, hiếu với dân. Với chủ đề này ta có thể chia bài thơ làm 2 phần: Sáu câu thơ đầu miêu tả cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị và đơn sơ, sống thuận theo tự nhiên của nhà thơ, hai câu thơ cuối là nỗi buồn tâm tư, thầm kín của nhân vật chữ tình. Như vậy mạch cảm xúc của nhà thơ di từ việc kể lại cuộc sống đến tâm trạng thi nhân. “Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ, sâu sắc những tư tưởng, tỉnh cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, tích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ lòng trung hiếu son sắt, thủy chung với dân với nước. Nếu như thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là màu sắc thì cái thần của tác phẩm văn học chính là hình tượng. Đến với “ Thuật hứng 24” ta thấy được hình tượng chính của bài thơ là nhân vật trữ tình đã được NT khắc họa chân thực trước hết qua vẻ đẹp cuộc sống.       “Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen.” “Công danh” là điều mà các nhà nho xưa luôn hướng tới, chăm chỉ học hành luyện tập để cống hiến cho đất nước. Bàn về điều này, Nguyễn Công Trứ từng khẳng định: “ Đã có tiếng nói trong trời đất Phải có danh gì với núi sông” Tuy nhiên Nguyễn Trãi đã thể hiện được sự thanh nhàn khi trút bỏ gánh nặng công danh, bỏ qua cái ồn ào ganh ghét trong triều đình để tìm về với cuộc sống thanh sơ an nhàn. Câu thơ “ Lành dữ âu chi thế nghị khen” đã nói lên thái độ đúng đắn khi chẳng phải quan tâm gì trước mọi chuyện thị phi “ lành giữ”, “khen chê” nữa. Chỉ cần sống tâm mình sao phải lo miệng lưỡi thế gian. Một giọng điệu khoan thai đã vẽ lên cuộc đời ung dung tự tại. Chính vì thế mà ông an nhàn hòa mình vào làng quê: “Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen.” Hai câu thơ trên đã cho độc giả thấy được một NT giản dị, mộc mạc thế nào: “Ao cạn – đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống - phát cỏ, ương sen” đối nhau thật tài tình làm hiện lên một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Đây là những hình ảnh chỉ có ở những làng quê, những nông dân chân lấm tay bùn. NT đã tự biến mình thành một lão nông tri điền. Cuộc sống chẳng cao sang có sơn hào hải vị, chỉ đơn giản là “muống” và “sen” nhưng giản dị và thanh cao. Chính bởi cái tâm hồn trong sáng, thanh bạch ấy mà ông đã cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên: “Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then.” Bút pháp phóng đại cùng phép đối hài hòa đã tô điểm cho vẻ đẹp huền ảo nơi làng quê. Tác giải đã “ khối lượng hóa” hình ảnh kho thu bằng lượng từ “ đầy”. Con thuyền thi nhân chỉ chở “gió”, “ trăng” mà cũng “nặng” làm “vạy” đi những chiếc then. Hai câu thơ không chỉ thành công tả cảnh mà còn cùng với những câu thơ trước làm đẹp thêm vẻ đẹp cuộc sống thể chất lẫn tinh thần của nhà thơ. Đọc hai câu thơ trên khiến ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Công Trứ: “ Kho thu chứa một thuyền đầy Của kho vô hạn biết ngày nào rơi” Từ vẻ đẹp cuộc sống thôn quê thuần hậu, hình tượng nhân vật trữ tình lại được tác giả thể hiện ở hai câu thơ cuối còn là tấm lòng thi nhân “Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”       Vượt lên cái thú thanh bình nhàn tản với “phong nguyệt” và “yên hà”, Ức Trai vẫn tâm niện một lòng son sắt với giang sơn. Tấm lòng ấy lớn lao, cao cả và vĩnh hằng suốt một đời người. Câu thơ cuối cùng có 6 chữ như một điểm kết tụ tâm hồn của nhà thơ, chẳng những thể hiện cái tài thi ca mà còn là một lời khẳng định, một lời thề với một tấm lòng trung với nước, hiếu với dân. Dù có mài có nhuộm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào tấm lòng ấy vẫn nặng tình với dân với nước mãi không thể phôi phai. Đó đã trở thành một nét đẹp trong thơ Ức Trai. “ Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giầu đủ khắp đòi phương” (Cảnh ngày hè) Góp phần làm lên thành công cho bài thơ phải kể đến giá trị nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đan xen những câu thơ lục ngôn ấn tượng. Ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng hàm súc, dung dị mà giầu sức gợi, các từ ngữ thuần việt gần gũi kết hợp những từ ngữ Hán việt đã thành công khắc họa cuộc sống nơi thôn ấp bình dị của nhà thơ. Đồng thời việc sử dụng những hình ảnh chân thực, dân dã đã đem đến cho người đọc cảm giác quen thuộc và là đặc trưng của một vùng quê VN. Ngoài ra còn phải kể đến các biện pháp nghệ thuật như đối, liệt kê, bút phá phóng đại đã diễn tả chân dung đời sống và vật chất tinh thần của thi nhân, làm đẹp thêm cho khung cảnh làng quê. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã khắc họa chân dung cuộc sống của NT, một thái độ và khí tiết thanh cao, đồng thời khẳng định, gửi gắm một tấm lòng son sắt, ái quốc, ưu dân. Lang thang trong những nẻo đường văn học, ta bắt gặp nối sống “nhàn” ấy không chỉ NT mà còn có các nhà thơ trung đại nổi tiếng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ. Cả hai bài thơ đều là nhưng tác phẩm tiêu biểu cho nối sống nhàn hạ. Đặc biệt phải kể đến bài thơ “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã nâng lối sống ấy trở thành một triết lý, một lựa chọn riêng. Với ông “nhàn” chính là khoảnh khắc gạt bỏ đi những gánh nặng công danh, tìm về một cuộc sống thanh thản trong tâm hồn. Nhưng NT lại có cách nhìn nhận khác “Nhàn” trong thơ NT chỉ là thuận với tự nhiên, nhưng tâm ông không ngừng nghĩ về hai chữ nước nhà đang dang dở. Thực chất ông chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm. Tấm lòng ấy có lẽ đã trở thành một nét đặc trưng khác biệt trong thơ NT.       Có thể nói “Thuật hứng 24” là bài thơ hay về cảm xúc, đẹp về ngôn từ. Bài thơ đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của NT. Ức Trai đã nói lên những nỗi niềm sâu xa, một lòng ưu ái về dân về nước, để rồi tình cảm thiêng liêng ấy nở hoa dưới ngòi bút tài tình của ông. Bài thơ quả là dẫn chứng tiêu biểu cho câu nói “ Thơ khởi phát từ lòng người”. Tác phẩm đã cho ta ý thức được tình yêu quê hương đất nước, bồi dưỡng nối sống hòa hợp với thiên nhiên và thêm biết ơn, trân trọng công lao to lớn của cha ông đi trước.

 Đây là lời đề nghị của anh thợ cắt tóc trong quá khứ khi anh còn là một người chiến sĩ.

- Khẳng định lời đề nghị mang theo thông điệp có tính triết lí sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

- Lời đề nghị là một lời khuyên, lời khẩn cầu tới mọi người cần phải biết nhìn nhận chính mình, luôn chiêm nghiệm, biết tự phản hồi, tự truy vấn, tự kiểm điểm để biết sống ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn từng ngày; đừng để những guồng quay tất bật của cuộc sống chen lấn, làm mù mờ đi những giá trị tốt đẹp của con người.

Bài 4 Từ những chi tiết nhỏ trong đoạn trích, người đọc có thể thấy rõ tính cách của người chiến sĩ thông qua hành động của anh: + Là một chiến sĩ có tinh thần, trách nhiệm cao với công việc: Dù người mà anh nhận nhiệm vụ thồ tranh là người họa sĩ đã từ chối vẽ tranh chân dung cho mình nhưng anh không từ chối mệnh lệnh của cấp trên giao và trong quá trình thồ tranh, anh đã làm việc một cách nghiêm túc, tận tình. + Là người bao dung, độ lượng: Dù trước đó, anh nhận được lời từ chối và vẻ mặt lạnh lùng, có phần kiêu ngạo của người họa sĩ nhưng anh đã không tận dụng cơ hội để "trả thù", cũng không lộ vẻ hả hê, vui mừng khi người họa sĩ bị thương. Ngược lại, biết người họa sĩ không còn mang vác nặng được nữa, anh đã tận tình giúp đỡ, vừa trị vết thương, vừa mang vác thay tất cả đống đồ đạc và những bức tranh của vị họa sĩ trên mình. Tất cả chỗ hành lí lên tới sáu bảy chục cân, mà anh chiến sĩ cũng chẳng khoẻ mạnh gì. Không chỉ nhanh chân ứng cứu, mang thay hành lí nặng, người chiến sĩ ấy còn động viên vị họa sĩ kia cùng những cử chỉ chăm sóc ân cần, chu đáo: "Đồng chí cố gắng lên.. Tôi dìu đồng chí đi nhanh qua bên kia suối sẽ nghỉ", mắc võng cho vị họa sĩ nằm rồi ôm súng ngồi gác bên cạnh. => Qua đây, chúng ta thấy rõ người chiến sĩ không chỉ là người hiền lành, chân chất, mà còn vô cùng tốt bụng, độ lượng và đầy trách nhiệm. Đến chính vị họa sĩ cũng phải tự xấu hổ vì bản thân, ông tự nhận người chiến sĩ ít tuổi hơn ông lại có lòng độ lượng, tinh thần trách nhiệm hơn bản thân ông.

- Biện pháp liệt kê: xoi mói, ngạc nhiên, hơi nghiêm mặt. 
- Chỉ ra tác dụng:
+ Giúp người đọc hình dung rõ hơn về vẻ mặt của nhân vật anh thợ cắt tóc.
+ Diễn tả những chuyển biến về tâm trạng của nhân vật anh thợ cắt tóc khi gặp lại người hoạ sĩ năm xưa.

Bài 2 Các nhân vật xuất hiện trong văn bản: anh thợ cắt tóc-chiến sĩ Giải phóng, họa sĩ, mẹ anh cắt tóc, vợ anh cắt tóc, mấy người bạn làm xưởng vô tuyến truyền hình

Bài 1 Ngôi kể của người kể chuyện: ngôi thứ nhất