K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Hà Nội, ngày 24tháng 2 năm 2024

Thành Đạt thân mến,

Đầu thư, tớ muốn gửi lời hỏi thăm sức khỏe đến cậu và gia đình. Chúng ta đã không gặp nhau được ba năm rồi, từ ngày bạn cùng bố mẹ chuyển vào Hà Nội sống. Các bạn trong lớp đều rất nhớ cậu, nên đã nhờ tớ viết lá thư này để hỏi thăm tình hình của cậu. Cuộc sống của cậu ở nơi ở mới có tốt không? Cậu đã làm quen được nhiều bạn mới chưa? Mỗi buổi chiều, cậu còn tập luyện bóng rổ không? Tớ cảm thấy rất nhớ những lúc chúng ta cùng nhau chơi bóng.

Còn tớ và các bạn trong lớp vẫn rất tốt. Năm học vừa rồi, tớ đã đạt danh hiệu học sinh giỏi với số điểm thi ba môn đều là 10 điểm. Ngoài ra, tớ còn may mắn giành được giải nhất trong cuộc thi “Trạng Nguyên Toán” cấp trường nữa đấy. Hàng ngày, tớ vẫn cùng các bạn đạp xe đến trường. Sau những giờ học miệt mài trên lớp, vào giờ ra chơi, cả lớp thường cùng nhau giải trí bằng những trò chơi tập thể rất thú vị. Điều đó làm tớ vô cùng thích thú. Những lúc đó tớ ước gì có cậu ở đây.

Tớ mong rằng sẽ sớm nhận được thư hồi âm của cậu.

Bạn của cậu

Vương

Phạm Lê Minh Vương

14 tháng 4

Phú Thọ, ngày 14 tháng 4 năm 2024

Bảo thân nhớ!

Đã gần nửa năm kể từ ngày mình chuyển trường vào đây. Mình nhớ cậu và trường cũ lắm nên hôm nay mình viết thư thăm cậu, nhân tiện kể cho cậu nghe về tình hình lớp và trường mình hiện nay.

Cậu vẫn khỏe chứ? Vào năm học rồi và đã sắp kiểm tra học kì I rồi, chắc là cậu bận học lắm phải không? Sức khỏe của bố mẹ cậu thế nào? Mình đoán là năm ngoái cậu học tốt vậy, thế nào năm nay cậu cũng được bố thưởng cho chiếc xe đạp để đi học, phải không?

Dạo này mình mập và cao hơn. Nhà mình ở gần trường nên mình thường đi bộ. Trường học hiện tại rất gần biển. Lớp của mình có 36 bạn, đa số là học sinh khá. Lớp trưởng của mình là con gái, bạn ấy khá nghiêm khắc nên mình cũng thấy khá sợ. Sắp đến kỳ kiểm tra nên mình phải ôn bài thật kĩ, thỉnh thoảng còn phải nhờ bố giảng.

Thôi, mình dừng bút đây. Chúc cậu và gia đình luôn khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn. Cậu nhớ nhanh chóng hồi âm nhé!

Bạn thân của Bảo

    Hán Quang An

I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP VỚI KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT  Đọc bài đọc sau và trả lời các câu hỏi. ​Quê ngoại      Làng Chùa là quê ngoại của Ki-a. Hiện tại Ki-a đang sống cùng gia đình tại Mỹ. Có một điều Ki-a không thể nào quên là ai ở đó cũng tươi cười và yêu quý em như người thân trong gia đình.      Mẹ của Ki-a kể khi mẹ còn nhỏ, cứ vào dịp nghỉ hè là mẹ lại được ông ngoại đưa ra đê thả...
Đọc tiếp

I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP VỚI KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT 

Đọc bài đọc sau và trả lời các câu hỏi.

​Quê ngoại

     Làng Chùa là quê ngoại của Ki-a. Hiện tại Ki-a đang sống cùng gia đình tại Mỹ. Có một điều Ki-a không thể nào quên là ai ở đó cũng tươi cười và yêu quý em như người thân trong gia đình.

     Mẹ của Ki-a kể khi mẹ còn nhỏ, cứ vào dịp nghỉ hè là mẹ lại được ông ngoại đưa ra đê thả diều, lấy lá dứa dại làm những chiếc chong chóng và những chiếc kèn thổi vang trên mặt đê trong những chiều mùa hạ.

     Sau chuyến thăm quê ngoại trở về nước Mỹ, Ki-a cảm thấy mình thật giàu có vì có thêm một quê hương. Em kể cho các bạn biết mình vừa có một chuyến đi rất xa để đến một ngôi làng ở Việt Nam. Ngôi làng đó là quê ngoại của em đấy.

     Thi thoảng trong giấc ngủ, Ki-a lại mơ thấy mình đang ở quê ngoại. Tỉnh giấc, Ki-a chỉ muốn ngủ tiếp để lại nhìn thấy quê ngoại trong giấc mơ, được gặp những người làng Chùa, được ngắm cánh đồng, dòng sông và dãy núi tím xa. Thế mà có lúc thấy Ki-a tỉnh giấc trong đêm, mẹ không biết em vừa mơ về quê ngoại, lại bảo: “Cún con ngủ đi chứ!”. Những lúc như thế, Ki-a tự hỏi: “Mẹ có mơ về quê ngoại như mình không nhỉ?”.

(Theo Nguyễn Quang Thiều)

Câu 7. (1.0đ) Em học hỏi được gì từ bạn Ki-a trong bài đọc trên?

Câu 8. (1.0đ) Tìm trong bài đọc trên câu văn sử dụng biện pháp so sánh.

0
(1,0 điểm) Từ khát vọng của chim yến, em nghĩ gì về khát vọng của con người trong cuộc sống hôm nay qua đoạn thơ sau? Dẫu nhỏ bé cũng là máu thịt Yến xây nên khát vọng riêng mình Chẳng hề nghĩ so cùng ai kiểu dáng Chỉ muốn tự do được hót giữa trời xanh Bài đọc: Khi chim yến chắt máu mình làm tổ Nơi tận cùng vách đảo giữa trùng khơi Yến chỉ nghĩ giữa sóng thần bão tố Phải có riêng một tổ...
Đọc tiếp

(1,0 điểm) Từ khát vọng của chim yến, em nghĩ gì về khát vọng của con người trong cuộc sống hôm nay qua đoạn thơ sau?

Dẫu nhỏ bé cũng là máu thịt

Yến xây nên khát vọng riêng mình

Chẳng hề nghĩ so cùng ai kiểu dáng

Chỉ muốn tự do được hót giữa trời xanh

Bài đọc:

Khi chim yến chắt máu mình làm tổ

Nơi tận cùng vách đảo giữa trùng khơi

Yến chỉ nghĩ giữa sóng thần bão tố

Phải có riêng một tổ ấm cho đời.

 

Dẫu nhỏ bé cũng là máu thịt

Yến xây nên khát vọng riêng mình

Chẳng hề nghĩ so cùng ai kiểu dáng

Chỉ muốn tự do được hót giữa trời xanh.

 

Con chim nhỏ suốt một đời lặng lẽ

Muốn giấu đi những gian khổ nhọc nhằn

Yến đâu biết cái nhỏ nhoi mình có

Đã hóa thành quà tặng thế gian.

                      (“Chim yến làm tổ” – Nguyễn Minh Khiêm, NXB Văn hóa dân tộc, 1998)

0
I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu.   Anh đom đóm​       (Trích) Mặt Trời gác núi Bóng tối lan dần, Anh đóm chuyên cần Lên đèn đi gác.   Theo làn gió mát Anh đi rất êm, Đi suốt một đêm Lo cho người ngủ.   Tiếng chị cò bợ: “Ru hỡi ru hời! Hỡi bé tôi ơi, Ngủ cho ngon giấc!”...   Ngoài sông thím vạc Lặng lẽ mò tôm Bên cạnh Sao Hôm Long...
Đọc tiếp

I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu.

  Anh đom đóm​

      (Trích)

Mặt Trời gác núi

Bóng tối lan dần,

Anh đóm chuyên cần

Lên đèn đi gác.

 

Theo làn gió mát

Anh đi rất êm,

Đi suốt một đêm

Lo cho người ngủ.

 

Tiếng chị cò bợ:

“Ru hỡi ru hời!

Hỡi bé tôi ơi,

Ngủ cho ngon giấc!”...

 

Ngoài sông thím vạc

Lặng lẽ mò tôm

Bên cạnh Sao Hôm

Long lanh đáy nước.

 

Từng bước, từng bước

Vung ngọn đèn lồng

Anh đóm quay vòng

Như sao bừng nở...

 

Gà đâu rộn rịp

Gáy sáng đằng đông,

Tắt ngọn đèn lồng

Đóm lui về nghỉ.

             VÕ QUẢNG

Câu 7. (1.0đ) Từ hình ảnh anh đom đóm, em rút ra bài học gì cho bản thân?

Câu 8. (1.0đ) Tìm từ có nghĩa giống với từ rộn rịp trong dòng thơ Gà đâu rộn rịp và đặt câu với từ vừa tìm được.

2
12 tháng 3

uccheđiên

hôm nay ngu  
   
   

 

6 tháng 3

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Tú Xương là một gương mặt thơ nổi bật với những cách tân mới mẻ. Cùng với hai mảng đề tài về xã hội Nam Định buổi giao thời và cảnh đời tư thì thực trạng thi cử cũng là đề tài mà ông quan tâm phản ánh. Ông đã để lại 13 bài thơ và phú về vấn đề “thi cử”, trong đó nổi bật là bài thơ “Vịnh khoa thi Hương”. Tác phẩm được làm thao thể thơ thất ngôn bát cú đã thể hiện rõ thực trạng xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam đang dần mục nát lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện tiếng cười trào phúng chua chát, sâu cay của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.

Hai câu thơ tuy đơn giản nhưng đã khéo léo giới thiệu được đặc điểm của kì thi Hương lần này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai đã làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì.

Tính chất tạp nhạp, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi. Tú Xương đã cố ý đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại không thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.

Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" - quan coi thi ở trường thi. Ông cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng "ậm ọe".

"Ậm ọe quan trường miệng thét loa"

Nếu như lũ sĩ tử "lôi thôi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy. Tú Xương đã đóng vai một nhà nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy bởi  không chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tôn kính, trang nghiêm của một kì thi lớn của đất nước.

Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.

Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.”

Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi mà nó được viếng thăm bởi tên Toàn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn. Không chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan đã diễn ra ngay trước mắt?

Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.

Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà không ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là "mụ" thì khác gì nói ông "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao? Quả thật, cái chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào!

Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một kẻ sĩ yêu nước, đau lòng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành dùng lời văn làm vũ khí cho mình.

Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ông, nó bật ra thành tiếng:

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".

"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc. Ông đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"?

Ở đây, Tú Xương không quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:

"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"

Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.

Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây".

Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi "ngoảnh cổ mà trông". Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ" của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.

Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ông cũng muốn vẽ lên cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước. Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: Hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân). Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ "Vịnh khoa thi Hương", Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam.