K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 2 2022

tham khảo

 

Quá trình xây dựng và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp

Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn.

Ngày 22 tháng 5 năm 1946, theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch nước, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Năm 1951, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 7/4/1949 chủ tịch HCM kí quyết định thành lập bộ đội địa phương

Trong kháng chiến chống Pháp quân đội ta vừa chiến đấu vừa xây dựng trưởng thành và đã lập nên nhiều chiến công hiển hách:

- Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947, đánh baị cuộc tiến công của 2 vạn quân Pháp tại chiến khu Việt Bắc.

- Chiến dịch Biên giới năm 1950, giải phóng một vùng rộng lớn Đông Bắc, xoay chuyển tình thế chiến tranh về phía có lợi cho ta. tấm gương tiêu biểu: chiến sĩ La văn Cầu nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tụ chiến đấu

- Chiến cuộc Đông – Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là c hiến dịch Điện Biên Phủ đánh tan quân Pháp xâm lược. tấm gương tiêu biểu: chiến si Bế Văn ĐÀn lấy thân mình làm giá súng, Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai.

23 tháng 2 2022

THAM KHẢO:

Quá trình xây dựng và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp

Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn.

Ngày 22 tháng 5 năm 1946, theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch nước, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Năm 1951, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 7/4/1949 chủ tịch HCM kí quyết định thành lập bộ đội địa phương

Trong kháng chiến chống Pháp quân đội ta vừa chiến đấu vừa xây dựng trưởng thành và đã lập nên nhiều chiến công hiển hách:

- Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947, đánh baị cuộc tiến công của 2 vạn quân Pháp tại chiến khu Việt Bắc.

- Chiến dịch Biên giới năm 1950, giải phóng một vùng rộng lớn Đông Bắc, xoay chuyển tình thế chiến tranh về phía có lợi cho ta. tấm gương tiêu biểu: chiến sĩ La văn Cầu nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tụ chiến đấu

- Chiến cuộc Đông – Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là c hiến dịch Điện Biên Phủ đánh tan quân Pháp xâm lược. tấm gương tiêu biểu: chiến si Bế Văn ĐÀn lấy thân mình làm giá súng, Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai.

19 tháng 2 2022

1. Trận đánh địch tại trường Con Gái đêm 19, 20, 21 tháng 12 năm 1946 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương).

a) Thời gian: Đêm 19, 20, 21 tháng 12 năm 1946

b) Diễn biến:

Tại Trường Con gái, ngay từ những phút đầu tiên, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra rất ác liệt.

Hỏa lực của ta không chế áp được các hỏa điểm địch, hỏa điểm địch bắn rát, các mũi xung phong của ta bị khựng lại không tiến công lên được.

Đêm 20/12/1946, vẫn đội hình như cũ, ta tiếp tục tiến công. Mũi đc Đặng Quốc Chinh đã bám sát ụ súng số 01. Địch bắn trả quyết liệt.

Ngày 21/12/1946, Ban chỉ huy mặt trận triệu tập một cuộc họp đến tất cả các mũi tiến công, các lực lượng tham chiến, kể cả chủ lực và địa phương để nhận định tình hình, rút kinh nghiệm chiến đấu, quyết định thay đổi chiến thuật, tạm thời tránh chỗ mạnh, dồn lực lượng đánh vị trí Trường Con gái, tăng cường một khẩu 37 mm đặt ở sân chùa Đông Thuần để bắn sang.

Đến 21 giờ đêm 21/12/1946 tiếng súng tiến công của quân dân thành phố Hải Dương lại nổ giòn. Quân ta chiến đấu gan dạ, mưu trí, giành giật với địch từng căn phòng, từng ngách đường. Khoảng  một giờ sau ta tiêu diệt và bắt gọn một trung đội lính Pháp. Khi giải tù binh về Ủy ban Bảo vệ tỉnh, chúng ngoan cố chống lại bị anh em tự vệ bắn chết 06 tên, còn lại bàn giao cho trên được 09 tên.

c) Kết quả

- Về địch: Bị diệt 19 tên, bắt sống 09 tên và thu toàn bộ vũ khí, trang bị

- Về ta: Hy sinh 02 đồng chí (Đc Đặng Quốc Chính và 01 đc thuộc đại đội Vệ quốc đoàn).

d) Ý nghĩa

- Trận đánh thắng bọn xâm lược Pháp tại vị trí trường Con Gái là chiến công đặc biệt, gợi mở cho quân ta nhiều cách đánh sau này.

- Quân ta đã giành quyền chủ động và phá tung thế trận của quân Pháp định đánh úp ta, đẩy chúng vào tình trạng bị động đối phó.

2. Trận đánh ca nô địch trên sông Gùa tại thôn Bá Nha, xã Hợp Đức, huyện Thanh Hà

a) Thời gian: Ngày 25 tháng 3 năm 1948

b) Diễn biến:

Đúng 13 giờ chiều ngày 25/3/1948, hai chiếc ca nô quân sự của địch chạy từ Hải Phòng lên Hải Dương. Khoảng một giờ sau, tổ trinh sát tại cây quéo thôn Bá Hoàng phát hiện 2 ca nô địch từ đò Lạng chạy xuống. Ca nô đi trước của địch đã vượt qua ống ngắm, khi ca nô di sau của địch vừa lọt vào tầm bắn thì đc Phạm Kim Bạo đã bình tĩnh bóp cò, một tiếng nổ vang cả mặt sông, chiếc ca nô địch khựng lại, bốc cháy, khói bay mù mịt và lao đầu sang bờ sông phía Lại Xá. Gần 60 tên địch và các phương tiện kỹ thuật, vũ khí trên ca nô bị cháy, chìm trong nước. Ca nô còn lại của địch vội vã thoát thân chạy về hướng Hải Phòng.

c) Kết quả

Ta bắn cháy, chìm 01 ca nô, phá hủy nhiều phương tiện kỹ thuật, vũ khí trên ca nô và tiêu diệt gần 60 tên địch.

d) Ý nghĩa

Chiến thắng bắn cháy và chìm ca nô địch trên sông Gùa đã làm nức lòng quân dân Thanh Hà. Chiến thắng đã mang lại sự vui mừng phấn khởi và niềm tin tưởng, lạc quan về loại vũ khí mới của ta. Câu ca "Bốn anh du kích Thanh Hà, bắn ca nô đắm chan hòa máu tây" được truyền tụng rộng rãi và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giết giặc lập công trong toàn huyện.

3. Trận đánh mìn phá hủy đoàn tàu hỏa chở lính Pháp của du kích xã Bình Định (Cẩm Giàng).

a) Thời gian: Ngày 05 tháng 10 năm 1948

b) Diễn biến

Sau 3 ngày đêm đặt "Mìn giả" vào vị trí định sẵn mà kẻ định không phát hiện được, nên đêm ngày 03/10/1948, cấp trên cho lệnh đặt mìn thật vào trận địa.

Sáng ngày 04/10, đội quân tuần tra dò mìn của địch đã không phát hiện được gì ở khu vực Chùa Dê. Trận địa mìn của ta vẫn còn nguyên vẹn. Đến 14 giờ có tiếp một đoàn tàu từ thị xã Hải Dương đang chạy về hướng trận địa.

Ngay đêm đó, Chi ủy và Ban chỉ huy xã đội đã quyết định khắc phục tình huống xảy ra bằng cách thay dây dật mìn bằng dây thép tốt hơn.

Căng thẳng trong chờ đợi suốt gần 4 giờ mà vẫn không có đoàn tàu nào chạy qua. Đến 14 giờ kém 10 phút, từ thị xã Hải Dương, một đoàn tàu kéo theo 12 toa chạy về phía Hà Nội. Trên tàu nhốn nháo bọn lính Âu Phi. Đoàn tàu đang từ từ lao vào trận địa. Khi nửa trên đoàn tàu vào vị trí đặt mìn, thì một tiếng nổ rung động cả một vùng, quả mìn 50 kg đã phá hủy đầu máy và lật đổ 6 toa, các toa còn lại đều bị trật bánh nghiêng ngả, dồn ép vào nhau. Bọn lính trên tàu kêu la, những tên sống sót sau khi hoàn hồn cầm súng lao xuống về đường và bắn xối xả ra các hướng.

Do vũ khí cất giấu ở hầm lâu ngày, nên khi bắn thì đạn không nổ, ném lựu đạn thì lựu đạn câm. Anh em đành phải bí mật rút lui. Giữa lúc đó ở phía bên kia đường tàu, hai đồng chí In và Yểng đã nhanh chóng rời vị trí, men theo bờ mương lẩn vào cánh đồng lúc đang độ chín. Bọn lính ở các chốt gần đó như bốt Cầu Ghẽ, Cẩm Giàng, Ngặt Kéo đến chi viện và truy tìm người giật mìn. Phát hiện được gốc dây mìn, đoán chắc là quân ta còn ẩn nấp ở đâu đây, bọn chúng liền phối hợp rải quân vây chặt cánh đồng phía nam gần khu vực Chùa Dê. Sau một hồi càn quét, bọn địch phát hiện thấy và bắn chết hai duy kích của ta. Đồng chí Nguyễn Văn In và Vũ Tiến Yểng chiến đấu dũng cảm và huy sinh oanh liệt sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đổ đoàn tàu quân sự địch.

c) Kết quả

Về địch: Bị tiêu diệt và bị thương 250 tên viễn chinh xâm lược; phá hủy 01 đầu máy, đổ và hư hại nặng 6 toa, 5 toa khác bị hư hại nhẹ; phá 140 mét đường sắt, làm đoạn đường này bị ách tắc suốt 3 ngày đêm.

Về ta: hy sinh 02 đồng chí

d) Ý nghĩa

Đây là trận đánh mìn thắng lợi giòn giã nhất trên địa bàn  Hải Dương tính từ đầu cuộc kháng chiến đến tháng 5/1948. Trận đánh biểu thị tinh thần quyết tâm rất lớn của đơn vị du kích xã đặc biệt của hai đồng chí trực tiếp đánh mìn. Trận đánh thể hiện tính kiên trì bám và đánh trúng đoàn tàu quân sự địch trong khắc phục sự cố, tập trung dân chủ bàn biện pháp có hiệu quả nhất. Trận đánh đã gây tiếng vang lớn trong cả tỉnh, chiến khu và trong cả nước, khích lệ tinh thần dám đánh giặc và thắng giặc, tạo đà cho phong trào đánh địch trên đường sắt, đường 5 ngày càng mạnh mẽ hơn.

------ tham khảo -----

 

7 tháng 2 2018

Đáp án: A

10 tháng 12 2021

Diễn biến của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ:

  • Tháng 1/1258, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 3 vạn quân Mông Cổ tràn vào nước ta. Giặc theo đi đường sông Thao và tiến xuống Bạch Hạc (Phú Thọ). Sau đó, tiến đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông chỉ huy.
  • Trước thế giặc mạnh Vua Trần rút lui khỏi thành Thăng Long , rút về Thiên Trường (Hà Nam) và thực hiện kế hoạch “Vườn không nhà trống”
  • Giặc vào kinh thành không một bóng người, không có lương thực. Chúng điên cuồng phá hoại kinh thành. Do quân ta chống trả quyết liệt và thiếu lương thực, chưa đầy 1 tháng địch rơi vào tình thế khó khăn, lực lượng bị tiêu hao dần
  • Nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, Hà Nội). Ngày 29/1/1258, quân Mông cổ bị đánh tan, phải rút chạy về nước. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 1 kết thúc thắng lợi.

Tóm tắt Cuộc kháng chiến chống quân mông nguyên lần 2

Diễn biến:

  • Tháng 1/1285, Thoát Hoan cầm đầu 50 vạn quân Nguyên tiến vào nước ta
  • Sau một vài trận đánh địch tại biên giới, quân ta đã tiến về Vạn Kiếp, Thăng Long và cuối cùng, rút về Thiên Trường (Hà Nam) để thực hiện kế hoạch “Vườn không nhà trống”.
  • Cùng thời điểm đó, Toa Đô dẫn quân từ Chăm-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa; quân Thoát Hoan mở cuộc tiến công xuống phía Nam để tiêu diệt quân ta, nhưng thất bại buộc phải rút về Thăng Long và lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng.
  • Tháng 5/1285, lợi dụng thời cơ quân địch đang suy yếu, nhà Trần tổ chức phản công đánh tan quân giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, Chương Dương, Hàm Tử, Thăng Long.

Kết quả của lần 2 kháng chiến chống quân Mông Nguyên: 50 vạn quân giặc bị giết chết, phần còn lại tháo chạy về nước. Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan chui ống đồng về nước.

Tóm tắt Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3:

Diễn biến:

  • Tháng 12/1287, quân Nguyên tấn công Đại Việt. Cánh quân thứ nhất do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào Lạng Sơn, Bắc Giang và chiếm đóng Vạn Kiếp
  • Cánh quân thứ 2 là thủy quân do Ô Mã Nhi chỉ huy tiến vào nước ta, ngược lên sông Bạch Đằng để phối hợp cùng Thoát Hoan

Chiến thắng Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc

  • Tại Vân Đồn, Trần Khánh Dư cho quân mai phục đợi đoàn thuyền lương của địch, khi đoàn thuyền lương của địch đi qua bị quân ta từ nhiều phía đánh ra dữ dội.

Kết quả của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần 3: Phần lớn thuyền lương bị đắm, số còn lại bị quân ta chiếm.

Chiến thắng Bạch Đằng

  • Cuối tháng 1/1288, quân Thoát Hoan chiếm đóng Thăng Long nhưng rơi vào thế bị động, lòng quân hoang mang
  • Quân ta bố trí, mai phục ở sông Bạch Đằng
  • Tháng 4/1288, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi rút về theo đường sông Bạch Đằng. Quân ta nhử địch vào sâu trận khi thủy triều dâng cao; đến khi nước rút thì thuyền địch xô vào cọc và bị quân ta đánh từ hai bên bờ

Kết quả: Nhiều quân giặc bị ta giết chết, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Cánh quân bộ của Thoát Hoan nhanh chóng rút về nước -> Quân Nguyên thất bại thảm hại, đập tan mộng xâm lược Đại Việt, ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên kết thúc.

Nguyên nhân thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên

Nguyên nhân thắng lợi không chỉ ở lãnh đạo mà tạo nên bởi một tập thể đoàn kết:

  • Sự đồng lòng của vua tôi nhà Trần, được tất cả các tầng lớp nhân dân ủng hộ và tham gia kháng chiến
  • Sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần, tinh thần quyết chí hy sinh của toàn dân, toàn quân ta.
  • Đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo
  • Sự lãnh đạo tài tài của các vị tướng nhà Trần, đặc biệt là Trần Quốc Tuấn

Ý nghĩa lịch sử ba lần kháng chiến chống quân mông nguyên

- Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Mông - Nguyên, bảo vệ được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia dân tộc.

- Khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam, có ý nghĩa nâng cao lòng tự hào, tự cường chính đáng cho dân tộc ta, củng cố niềm tin cho nhân dân.

- Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống chiến đấu của một nước nhỏ nhưng luôn phải chống lại những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần đến xâm lược.

- Để lại nhiều bài học quý báu về củng cố khối đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự quan tâm của nhà nước đến toàn dân, dựa vào dân để đánh giặc.

6 tháng 5 2021

1.Hoàn cảnh

- Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

- Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc - Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến.

- 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, cả thành phố mất điện là tín hiệu tiến công. Hồ Chủ tịch ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

 

6 tháng 5 2021

2.Nội dung:

+ Kháng chiến toàn dân: xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
+ Kháng chiến toàn diện: do địch đánh ta toàn diện nên ta phải chống lại chúng toàn diện. Cuộc kháng chiến của ta bao gồm cuộc đấu tranh trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế…
+ Kháng chiến lâu dài: so sánh lực lượng lúc đầu giữa ta và địch chênh lệch, địch mạnh hơn ta về nhiều mặt, ta chỉ hơn địch về tinh thần và có chính nghĩa. Do đó, phải có thời gian để chuyển hóa lực lượng làm cho địch yếu dần, phát triển lực lượng của ta, tiến lên đánh bạo kẻ thù.
+ Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: mặc dù ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm vào.
 

Tham Khảo

một bộ phận nhỏ quân Pháp theo gót quân Anh vào miền Nam nhưng dựa vào gần 2 vạn lính Pháp còn lại tại Đông Dương và sự tiếp tay của quân Anh, ngày 23/9/1945, quân Pháp gây hấn đánh chiếm Nam Bộ, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bắt đầu.

 

Từ ngày 23/9/1945 đến năm 1946, cuộc kháng chiến diễn ra trên chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Mặc dù lực lượng vũ trang của ta ở đây rất nhỏ và yếu nhưng có những đoàn quân Nam tiến từ miền Bắc, miền Trung vào, những đoàn quân của Việt kiều từ Lào, từ Campuchia, từ Thái Lan về, nhất là nhân dân đứng lên tổ chức đánh địch nên đã từng bước ngăn chặn quân địch, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.

Tuy nhiên vào thời điểm này, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn, không thể tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô cả nước với thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương hoà hoãn nhân nhượng, cố gắng giải quyết cuộc xung đột Pháp-Việt bằng con đường hoà bình, chí ít cũng trì hoãn cuộc chiến tranh chậm nổ ra để ta có thời gian chuẩn bị lực lượng. Các cuộc hoà đàm Việt-Pháp diễn ra, Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước Việt-Pháp (15/9/1946) được ký kết. Chiến tranh bị đẩy lùi một bước.

Không từ bỏ ý đồ xâm lược, thực dân Pháp ngày càng lấn tới đòi nhân dân ta hạ vũ khí đầu hàng. Khả năng hoà hoãn không còn, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mấy nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, cả nước đứng lên kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

Đường lối kháng chiến của Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến tranh là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Từ ngày 19/12/1946 đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân dân ta đã chặn đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo toàn lực lượng rút khỏi thành phố, phát triển lực lượng, phản công diệt địch trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau khi mở rộng được địa bàn chiếm đóng trên cả nước, Thu Đông năm 1947, Pháp tập trung trên 2 vạn quân mở cuộc tiến công lớn hiệp đồng quân binh chủng từ nhiều hướng bao vây căn cứ Việt Bắc, tìm diệt quân chủ lực và đầu não kháng chiến của ta.

Ngày 7/10/1947, địch bắt đầu tiến công. Quân địch theo đường bộ số 3, số 4 và đường thuỷ sông Lô, sông Gấm hình thành thế bao vây Việt Bắc. Đồng thời, địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, chợ Mới, chợ Đồn định diệt các cơ quan đầu não kháng chiến.

Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy ta đã phán đoán âm mưu của địch nhưng việc nhảy dù xuống địa điểm cụ thể thì chưa lường hết nên lúc đầu có lúng túng. Sau khi nắm được kế hoạch của địch, ta đã điều chỉnh kế hoạch tác chiến.

Lực lượng ta dùng trong chiến dịch là 10 trung đoàn và 7 tiểu đoàn bộ binh cùng dân quân du kích tại chổ. Các chiến trường toàn quốc cũng đẩy mạnh tiến công phối hợp.

Trên hướng tiến công đường số 3, số 4 của địch, quân ta đánh phục kích, tập kích liên tục nhiều trận tiêu hao lực lượng địch. Bị thiệt hại nặng, địch phải quay lại.

Mục tiêu chiến dịch không đạt được, lại bị thiệt hại nặng và có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt nên địch phải rút lui. Ngày 22/11, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Bắc. Dọc đường bị quân ta phục kích một số trận. Ngày 22/12/1947, chiến dịch kết thúc.

Chiến dịch Việt Bắc kết thúc giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Quân ta loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 địch, đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của địch, làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng, bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới.

Từ năm 1948 đến chiến dịch Biên Giới (1950), phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh vận động chiến tranh, chiến thắng Biên Giới.

Sau Chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh. Từ chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” phải chuyển sang đánh lâu dài, thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Từ mở rộng vùng chiếm đóng chuyển sang củng cố vùng chiếm đóng, từ những cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta chuyển sang nhiều cuộc hành quân nhỏ đánh vào cơ sở kinh tế, chính trị và diệt từng bộ phận lực lượng vũ trang ta. Chúng ra sức củng cố nguỵ quyền, phát triển nguỵ quân, tranh thủ viện trợ Mỹ.

Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, lực lượng vũ trang ta trưởng thành một bước quan trọng. Ngày 28/8/1949, sư đoàn chủ lực đầu tiên - đại đoàn 308 ra đời, tiếp đó đầu năm 1950 đại đoàn 304 được thành lập. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời, ta chủ trương “Phải từng bước đẩy vận động chiến tiến tới”.

Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới Việt - Trung, gắn liền với phe xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 16/9, quân ta nổ súng đánh Đông Khê (Lạng Sơn) mở màn chiến dịch, sau đó đón đánh diệt 2 binh đoàn quân Pháp đến tăng cường cho Thất Khê sợ bị tiêu diệt, quân Pháp phải rút chạy khỏi các cứ điểm từ Thất Khê đến Lạng Sơn, quân ta truy kích diệt thêm một số quân Pháp.

Ở các địa phương, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động tiến công phối hợp với chiến dịch Biên Giới. Ngày 14/10/1950, ta kết thúc chiến dịch. Chiến dịch Biên Giới, ta đã diệt được trên 8.000 quân địch, thu nhiều vũ khí trang bị, giải phóng vùng biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), mở rộng giao lưu quốc tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường.

Từ năm 1951 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, giữ vững quyền chủ động chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh. Sau thất bại ở chiến trường biến giới, thực dân Pháp còn cố giành lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin thêm viện trợ Mỹ, De Latre de Tassigny, viên tướng được coi là tài giỏi nhất của nước Pháp lúc đó, được cử sang Việt Nam với kế hoạch: phát triển quân số, xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc, tập trung giữ chiến trường chính là Bắc Bộ, đồng thời tăng cường càng quét “bình định” Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp với đánh phá, bao vay kinh tế, chiến tranh tâm lý với vùng căn cứ kháng chiến.

Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến công liên tục tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Các đại đoàn 312, 316, 320, 351, 325 được thành lập. Nhiều chiến dịch lớn được mở như Chiến dịch Trần Hưng Đạo (tháng 12/1950-2/1951) ở Bắc Giang, Việt Trì; Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (tháng 4/1951) dọc đường 18; Chiến dịch Quang Trung (tháng 5-6/1951) ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình; Chiến dịch Lý Thường Kiệt (tháng 9-10/1951) ở Nghĩa Lộ; Chiến dịch Hoà Bình (tháng 12/1951-2/1952); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1951-2/1952); đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích.

17 tháng 9 2019

Chọn đáp án B.

- Cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ là cuộc chiến tranh thể hiện rõ tư tưởng chiến tranh nhân dân, nghĩa là có sự đoàn kết của toàn dân chống Pháp. Sức mạnh của nhân dân đã làm nên nhiều chiến thắng to lớn, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Ngày nay, trong bất cứ chính sách, chủ trương nào của nhà nước nếu không có sự đoàn kết toàn dân thì khó có thể thực hiện có kết quả. Đặc biệt, khi vấn đề chủ quyển biển Đông đang đặt ra cấp bách, chúng ta cần đoàn kết toàn dân để nâng cao sức mạnh của toàn dân tộc, đánh bại âm mưu của “kẻ thù”.

2 tháng 8 2019

Đáp án: A