K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 12 2020

cậu tham khảo bài văn này nha

Văn học trung đại luôn là mốc son chói lọi của văn học nước nhà. Một trong những cảm hứng lớn xuyên suốt nền văn học trung đại chính là cảm hứng yêu nước. Trong hai bài thơ ''Tỏ lòng'' của Phạm Ngũ Lão và ''Cảnh ngày hè'' của Nguyễn Trãi, ta thấy được rất rõ cảm hứng yêu nước trong tác giả.

Trong ''Tỏ lòng'', cảm hứng yêu nước gắn liền với hào khí quân đội nhân dân thời Trần và trách nhiệm của trang nam nhi với vận mệnh dân tộc:

''Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu'' 

Lời thơ mang theo tầm vóc, khí thế trong con người của thời đại. Hình ảnh “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” là cách nói ẩn dụ ước lệ gợi ra cho ta khí thế dũng mãnh, kiên cường của quân đội thời Trần. Cụm từ ‟ khí thôn ngưu” được  hiểu là khí thế của đội quân ra trận sôi sục và thậm chí át cả sao ngưu. Câu thơ mang theo bao tình cảm tự hào của nhà thơ với quân đội, hào khí của nhân dân Đại Việt. Hình ảnh con người thời Trần cũng vì thế mà  đẹp hơn trên trang thơ. Người tráng sĩ  là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, vẻ đẹp thời đại. 

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh của cả một thời đại mà con người thức tỉnh mình trong những ý thức, trách nhiệm với quốc gia, dân tộc: 

''Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu''

Người quân tử trong xã hội phong kiên đương thời luôn mang trong mình nợ công danh. Đó cũng là quan điểm của Nho gia. Hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ  là niềm khát khao đáng giặc bảo vệ bờ cõi. Nợ công danh chưa trả hết nên trong thâm tâm nhân vật là sự  “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.  Đó quả là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu vì dân, vì nước.

Cảm hứng yêu nước được tiếp nối trong ''Cảnh ngày hè'' cách sau đó mấy thế kỉ. Yêu nước trong Nguyễn Trãi là yêu thiên nhiên, là ước mong về một cuộc sống đủ đầy cho nhân dân. Bức tranh thiên nhiên c được Nguyễn Trãi vẽ bằng tình cảm chân thành, thắm thiết. Những cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen được thi vị hóa trong thơ Nguyễn Trãi đem đến vô vàn những cảm nhận trong lòng người. Tác giả đã sử dụng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật và mang vào đó sự hồi sinh, sức sống của cảnh vật. Động từ mạnh “phun”, đùn đùn” đã vô cùng thành công diễn tả sự căng tràn của cảnh vật. Ta thấy hiện lên trong bức tranh ấy là con người vô cùng yêu, say mê cảnh sắc thiên nhiên và cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả giác quan, hưởng trọn cái đẹp thiên nhiên. 

Bức tranh cuộc sống sôi động với chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương giúp ta thấy được cái nhạy bén và sự gần gũi của thi nhân với cảnh vật. Những từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống với sức sống căng tràn làm lòng người xốn xang. 

Chân dung nhà thơ, chân dung yêu nước nồng nàn, tha thiết còn được thể hiện rõ trong những câu sau. Nếu mở đầu bài thơ là sự rảnh rỗi thì đến đây ta hiểu nhà thơ thân nhàn mà tâm không nhàn. Điển tích điển cố “Ngu cầm” đã gợi về triều đại vua Nghiêu Thuấn với nền thái bình. Và niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi chính là được sống cống hiến cho nhan dân, để nhân dân được hưởng hạnh phúc. 

Cả hai bài thơ đều là những vần thơ độc đáo thể hiện tình yêu nước nồng nàn, lớn lao trong mỗi tác giả. Cảm hứng yêu nước ấy đã mở ra tình yêu lớn lao để không chỉ là quá khứ kia đẹp tươi mà nhân dân hiện nay cũng thêm ý thức, trách nhiệm với tình yêu nước nồng nàn. 

Chúc cậu học tốt

22 tháng 12 2021

Tham khảo

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới chứa đựng những nét độc đáo, lấp ló niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là “Cảnh tình mùa hè”.

Câu thơ đầu cho thấy Nguyễn Trãi đang sống rất thong thả, rảnh rỗi một cách bất thường. Bởi, nếu còn được tham gia vào việc triều chính thì không có cái an nhàn ấy. Bài thơ có khả năng được sáng tác vào khoảng 1438 - 1439 lúc Nguyễn Trãi về Côn Sơn để lánh lũ nịnh thần đang lũng đoạn triều đình. Câu thơ như một tiếng nói tự bên trong: “Ừ, rảnh rỗi đến thế này rồi thì ta hóng mát mãi”.

Có thể coi bốn câu đầu tiên miêu tả cảnh. Tác giả mở tâm hồn ra với thiên nhiên và cuối mùa hè trong lúc rảnh rỗi cảnh và “hóng mát”. Bức tranh rất sinh động và đầy sức sống. Cây hòe đang phát triển màu xanh lục của nó cứ “đùn đùn” mà lên, mà tỏa tán, mà trương rợp ra như một cái dù xanh đan bằng cành lá. Màu xanh cứ vậy mà sum suê, mà tỏa rộng.

Ở hiên nhà, những bông hoa thạch lựu nở hoa đỏ chói, màu lửa làm chói rực rỡ. Cái gam màu đỏ là màu nóng đối với cái gam màu xanh là màu lạnh càng làm cho cảnh vật tưng bừng hoạt náo như đua nhau khoe sự sống. Những ngày cuối xuân đầu hè, Nguyễn Trãi cũng cảm nhận tinh tế:

“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”

Để tả mùa hè Nguyễn Du viết:

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”

Cảnh vật ở đây được đón nhận bằng nhiều giác quan (mắt, mũi, tai và cả ấn tượng nữa). Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì có sức nội năng có cái gì thôi thúc bên trong dường như không kiềm lại được cứ “đùn đùn” và “phun trương” ra tất cả. Cảnh vật được nhân hóa cho nên nó thiên về miêu tả trạng thái tinh thần của sự vật qua đây ta thấy được lòng yêu đời của tác giả thật mãnh liệt.

Cách đặt câu khiến ta suy nghĩ rằng cái hiên nhà phun những bông hoa màu đỏ chứ không phải là cây thạch lựu; cái hồ sen đã im ngừng mùi hương chứ không phải là bông sen. Cái nhìn như vật nó tinh tế và mới lạ vui vẻ mặc dầu người đọc có thể hiểu màu đỏ và hương thơm ấy từ đâu. Có lẽ nhà thơ đã quạnh hiu và chán nản với thực trạng là nhờ thiên nhiên xoa dịu niềm đau. Nhưng trong cách âm thanh của thiên nhiên Nguyễn Trãi vẫn lọc được tiếng nói của cuộc đời. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời. Lao xao chợ cá dội lên từ một làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ” và cả tiếng ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lòng Nguyễn Trãi đang tấu nhạc?

Nghe thấy để chứng thực rằng dân đang sống giàu đủ yên vui Nguyễn Trãi ước mơ có cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

“Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Câu lục được cắt nhịp vững chãi kết tụ cảm xúc trong bài thì ra dù có “rồi hóng mát”, tác giả vẫn đau đáu một lý tưởng vì dân. Con người suốt đời mang tới no ấm cho dân.

“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
Cầu một ngồi coi đời thái bình”

(Tự thán, bài 10)

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Với thiên nhiên cây cỏ, ông yêu nó đắm say. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những Ức Trai chăm chắm “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lý tưởng mong cho thôn xóm vắng không có tiếng oán than, đau sầu.

27 tháng 12 2017

* Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi:
- Nội Dung:

o Thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng dân giàu, nước mạnh của Nguyễn Trãi
o Tâm hồn, nhân cách cao thượng, tấm lòng yêu dân, yêu nước...
- Nghệ thuật:
o Vận dụng sáng tạo thể thơ Đường Luật
o Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gợi cảm, giàu tính tạo hình. Có sự kết hợp giữa lời ăn tiếng nói hàng ngày
o Nghệ thuật tả cảnh tả tình

27 tháng 12 2017

1. Tỏ Lòng - Phạm Ngũ Lão:

- Nội Dung: Tỏ Lòng là một bài thơ tỏ chí. Qua bài thơ, người đọc thấy được chí khí anh hùng của của người anh hùng Phạm Ngũ Lão, cùng là của quân dân nhà Trần.
- Nghệ thuật:
o Tỏ lòng là bài thơ Đường Luật ngắn gọn, đạt tới độ súc tích cao. Hình tượng được xây dựng bằng bút pháp ước lệ và lý tưởng hóa.
o Âm điệu bài thơ: Trang trọng

2. Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi:

- Nội Dung:
o Thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng dân giàu, nước mạnh của Nguyễn Trãi
o Tâm hồn, nhân cách cao thượng, tấm lòng yêu dân, yêu nước...
- Nghệ thuật:
o Vận dụng sáng tạo thể thơ Đường Luật
o Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gợi cảm, giàu tính tạo hình. Có sự kết hợp giữa lời ăn tiếng nói hàng ngày
o Nghệ thuật tả cảnh tả tình

29 tháng 11 2019
1. Nét chung
- Cả hai nhà thơ đều có lòng vì nước, vì dân.
- Cả hai đều rũ bỏ danh lợi, về ở ẩn, hoà đồng với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần.
2. Vẻ đẹp riêng
- Giới thuyết hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ.
- Trong bài thơ Cảnh ngày hè, trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, cảnh sắc thiên nhiên rạo rực, căng tràn, ngồn ngộn sức sống, thể hiện tình cảm mãnh liệt của nhà thơ với đời, với người. Đặc biệt, câu mở đầu bài thơ cho thấy, ở Nguyễn Trãi, cảnh nhàn nhưng tâm không nhàn. Cái nhàn của Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè là cái nhàn bất dắc dĩ. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng ưu quốc, ái dân sâu sắc, thường trực, cuồn cuộn. Làm sao để dân giàu, nước mạnh là ước mơ, là nỗi trăn trở suốt đời của Nguyễn Trãi.
- Trong bài Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vui trọn với thiên nhiên. Cảnh vật trong thơ ông hiện lên yên bình, thanh thản. Hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên trong tâm thế nhàn tản, ung dung, sống với những điều bình dị, sẵn có nơi thôn dã. Thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là không vướng bận việc đời, coi thường công danh. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái nhàn của người đã thoát vòng tục luỵ, đã giác ngộ được quy luật thời thế “công thành thân thoái”.
3. Lí giải sự khác nhau
- Không phải Nguyễn Trãi không thấu hiểu quy luật “công thành thân thoái”, nhưng thời Nguyễn Trãi là thời khởi đầu nhà Lê, đất nước ta vừa độc lập sau hơn hai mươi năm đô hộ của giặc Minh, tình hình còn nhiều khó khăn nhưng mang tiềm lực phát triển, rất cần có bàn tay hiền tài kiến thiết. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng nhân nghĩa dạt dào, ưu quốc ái dân nhưng không được tin dùng nên ông phải trở về. Dù sống giữa quê hương trong cảnh nhàn rỗi, vui với cảnh đẹp và cuộc sống thôn quê nhưng tấm lòng ông vẫn luôn hướng về đất nước, nhân dân. Ông không cam tâm nhàn tản để an hưởng riêng mình mà chấp nhận xả thân cống hiến cho đất nước.
- Không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm không quan tâm đến thế sự so với Nguyễn Trãi, mà thời đại của ông là thời trước Lê Trung Hưng, là giai đoạn chế độ phong kiến đã suy tàn, nhiều thối nát, rối ren. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có nhều cố gắng giúp nước, giúp dân nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Lời thơ “ta dại – người khôn” thể hiện thái độ mỉa mai của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho xã hội. Tuy về ở ẩn, không làm quan những ông vẫn giúp nước bằng những lời khuyên sáng suốt cho các thế lực phong kiến đương thời.
30 tháng 11 2019

- Cả hai bài thơ đều thể hiện chữ “Nhàn”; thực chất đây là lối sống nhàn tản, xuất thế, cách ứng xử tiêu cực của những nhà nho không gặp thời. Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của hai bài thơ, ta thấy việc về nhàn là cách duy nhất để giữ gìn khí tiết. Nhưng một khi đã về “nhàn”, các nhà thơ lại rộng mở tấm lòng, hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã.
- Mức độ thể hiện của chữ “Nhàn” ở hai bài thơ có sự khác nhau:
+ Nguyễn Trãi tuy về nhàn nhưng vẫn đau đáu trong nỗi niềm ái quốc ưu dân. Ông nhàn cư chứ không nhàn tâm. Đây chính là tinh thần nhập thế tích cực ngay cả khi đã về nhàn.
+ Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn” được nâng lên thành triết lí sống, thành một lựa chọn. Về nhàn ông đã thật sự tìm được sự thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác (“nội đắc tâm thân lạc”.
- Tuy có những biểu hiện khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều cho thấy cách sống lạc quan và đặc biệt là tâm hồn thanh cao của các vị danh nho

20 tháng 11 2021

Tham khảo!

3:

 

. So sánh, Phóng đại

Tăng sức gợi hình gợi cảm cho bài thơ đồng thời khẳng định, nhấn mạnh nỗi vất vả của người nông dân trong quá trình tạo ra hạt gạo.

4,

Đoạn thơ trên đã sư dụng những hình ảnh rất đặc sắc để chỉ nỗi vất vả của những người làm ra hạt gạo. Họ đã phải đới mặt với rất nhiều những thiên tai, khó khăn về thời tiết để làm ra những hạt lúa vàng và những hạt gạo trắng gần. Từ việc hiểu được nỗi vất vả của những người nông dân ta càng thêm trân trọng sản phẩm lao động của họ đã tạo nên.

21 tháng 11 2021

 So sánh, Phóng đại

Tăng sức gợi hình gợi cảm cho bài thơ đồng thời khẳng định, nhấn mạnh nỗi vất vả của người nông dân trong quá trình tạo ra hạt gạo.

4,

Đoạn thơ trên đã sư dụng những hình ảnh rất đặc sắc để chỉ nỗi vất vả của những người làm ra hạt gạo. Họ đã phải đới mặt với rất nhiều những thiên tai, khó khăn về thời tiết để làm ra những hạt lúa vàng và những hạt gạo trắng gần. Từ việc hiểu được nỗi vất vả của những người nông dân ta càng thêm trân trọng sản phẩm lao động của họ đã tạo nên.

20 tháng 11 2021

 

Hai phương thức biểu đạt của đoạn thơ:

- Tự sự;

- Miêu tả