K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

17 tháng 3 2017

* Giới thiệu tác giả, bài thơ, đoạn thơ.

* Cảnh và người Việt Bắc rải rác trong toàn bộ bài thơ nhưng kết tinh ở đoạn thơ này những vẻ đẹp đặc sắc, tinh túy nhất.

  - Hai câu đầu đoạn: Khẳng định nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc.

  - Tám câu còn lại là những nét ấn tượng nhất về cảnh và người.

   + Thiên nhiên bốn mùa với hình ảnh, âm thanh, sắc màu sống động, rực rỡ (màu đỏ như lửa của hoa chuối, màu trắng thơ mộng thanh khiết của hoa mơ, màu vàng rực rỡ, chói chang của rừng phách, tiếng ve ngày hè, vầng trăng thu thanh bình, yên ả, …)

   + Con người Việt Bắc hiện lên với những phẩm chất đáng trân trọng (tự tin, khéo léo, cần mẫn, chịu thương chịu khó và giàu nghĩa tình, …)

* Đánh giá vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc.

22 tháng 10 2021

Bạn tham khảo nhé:

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.

 

Bài thơ "Việt Bắc" được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm.

Xuyên suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta, giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩ

Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe. Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp.

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

"Ta" và "mình" thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi

Tác giả Tố Hữu đã vô cùng khôn khéo khi dẫn dắt người đọc tới những cảnh đẹp vô cùng nên thơ lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ lên một mùa đông ấm áp, nhưng ngập tràn tình yêu thương, niềm tin của những con người phúc hậu nơi đây.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở lên giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng vô cùng sinh động, ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng thân, công cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình

Đồng thời ánh nắng mùa đông là cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Trong hai câu thơ này tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.

Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào

Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng luôn gắn liền với những con người nơi đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc tác giả luôn nhớ về những con người, những hoạt động của con người nơi đây thể hiện tình cảm sâu đậm của tác giả với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.

Bức tranh thiên nhiên về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, huyên náo tiếng ve kêu. Ở mỗi bức tranh tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khôn khéo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.

Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc tác giả đã khôn khéo kết hợp thiên nhiên có hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc, gần gũi nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.

Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ trữ tình hình ảnh ánh trăng hòa bình, sáng trong nên thơ thể hiện sự tròn đầy, chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh thân mình để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất thân yêu này.

Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.

Câu1:Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy Như buổi đầu hò hẹn, say mê Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng vềMà nói vậy: "Trái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ, và phần để em yêu..." Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay Anh đón em về,...
Đọc tiếp

Câu1:

Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy
Như buổi đầu hò hẹn, say mê
Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
Mà nói vậy: "Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu..."
Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!

1)Phương thức biểu đạt của văn bản trên

​2)Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ

​3)Viết 7-10 dòng nói lên cảm xúc của mìnhvê đoạn thơ trên​​

​Câu 2:Nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng một bức tương đài về người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp của người chiến sĩ Thăng Long -Hà Nội của dân tộc Việt Nam.Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên

0
26 tháng 10 2023

Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ bé nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi và vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, hiểm trở .

Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 trước đây đã lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu thương về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.

 

Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp rất độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử oai hùng. Bài thơ đã được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ngày ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh con sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc có những câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên là “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, về khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại nơi luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi và khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính ở ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc có thể cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng mỗi người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng và một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng ở trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi tơ tình bện chặt lòng người. Và ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao và Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi là khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên những nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ là bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà ở đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận được về một sự trúc trắc gập ghềnh và đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, nó đã gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa và người đọc như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút và nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu mà còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ “súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng chừng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện được một chút dí dỏm tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh và hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ và cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

 

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” là những người dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn có thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng cũng hơn hết là một trang trí nơi anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn sẽ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn và mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng và vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà chính là sự bùng lên của niềm vui và niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo đã tự bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như là hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ rất lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là những huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đó là đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn và nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say, lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

 

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng và hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ và không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế và câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là một người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh ở trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ mộng này, và đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã và mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút ít hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm ở đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” có ý nghĩa định vị về mặt không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, để nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả cảnh mà còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay là nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính trong nhớ thương, không rõ nét, mờ ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là những “hồn lau”, không phải miêu tả người mà mà cũng là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất mà khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy” và “có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ vô cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”, ”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là những tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh “nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên là mạnh mẽ dữ dội, một bên là nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn là những hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm tác giả. Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như là từ “đu đưa” mà đó còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy và cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm thêm cái phi thường, tài hoa, và đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh thần lạc quan với chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập: “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người lắm mộng nhiều mơ và những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh và nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu và khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu và nhớ “dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó đã khiến cho hình ảnh người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, và nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo ở đây là nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ cũng chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng hơn và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những người lính. Trên con đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi” thì câu thứ hai tô đậm nét “Tráng” và “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc và hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, vô cùng dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn bó với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân lịch sử. Sông Mã tấu lên “khúc độc hành” – khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một đã thời mê say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ và nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt ly, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp mà Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến và trở về Tây Tiến chính là ngày mà chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa và hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.

Cảm nhận về hình tượng Đất Nước trong đoạn thơ, từ đó nhận xét cách nhìn mới mẻ về Đất Nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng ĐấtNước có...
Đọc tiếp

Cảm nhận về hình tượng Đất Nước trong đoạn thơ, từ đó nhận xét cách nhìn mới mẻ về Đất Nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất

Nước có từ ngày đó…  

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””

(Trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2018) HẾT -

0