K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 5 2020

Đức Thọ là vùng đất địa linh nhân kiệt , giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Với bao tên làng, tên người đã đi vào ịch sử. Bến tam soa nơi hợp lưu của 2 con sônng Ngàn Phố, Ngàn Sâu tạo nên con Sông la xanh trong thơ mộng. Bao con người sinh ra từ mảnh đất này đã đổ mồ hôi, nước mắt và máu để xây dựng nên quê hương Trần Phú, để cho Đức Thọ đi vào tâm thức của muôn người trên vạn nẻo non sông

Nhân dân Đức Thọ vốn giàu lòng yêu nước, cần cù, hiếu học, chịu khó. Thời kỳ nào cũng sản sinh ra những người tài giỏi, đức độ phục vụ đất nước, quê hươn; tiêu biểu những người con người yêu nước đã đi vào lịch sử của dân tộc như: Nguyễn Biểu, Lê ninh, Lê Văn Huân, Phan Đình Phùng, Trần Phú. Những sỹ phu và nhà khoa học nổi tiếng như: Lê Bôi, Bùi Dương Lịch, Lê Văn Thiêm, Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ngọc Phách.... có những làng nổi tiếng về những người đậu đạt cao như làng Đông Thái, Trung Lễ, Yên Hồ, Bùi xá .....

Tiềm năng du lịch Đức Thọ phong phú và đa dạng, có nhiều phong cảnh đẹp, có nhiều di tích lịch sử văn hoá lâu đời, giữ vai trò chính trong việc thu hút khách đến du lịch và tham quan. hiện trên địa bàn huyện có 94 di tích, trong đó có 14 di tích được xếp hạng, tiêu biểu như di tích văn hoá Nguyễn Biểu, mộ Phan Đình Phùng, nhóm di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật gồm các đình, chùa, đền, miếu, tiêu biểu là chùa Am, Phượng Thành. Nhóm di tích cách mạng tiêu biểu như khu mộ và nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú, các nhóm di tích kết hợp với môi trường sinh thái thiên nhiên hiện có của huyện sẽ tạo thành một tour du lịch tâm linh - sinh thái từ Thị trấn Đức Thọ đến chùa Am, Phượng Thành - khu mộ Phan Đình Phùng, khu lưu niệm và khu mộ Trần Phú trở về bến Tam Soa, rồi xuôi dọc sông La. Tour du lịch tâm linh sinh thái này hiện đang được khảo sát, quy hoạch, để lập dự án khả thi. Tiềm năng du lịch tự nhiên kết hợp với du lịch nhân văn sẽ tạo ra một nguồn lực đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm tới, trong mối quan hệ liên doanh, liên kết với các trung tâm du lịch lớn của vùng và của tỉnh.

Hà Tĩnh là một tỉnh ở dải đất miền Trung, nằm trong vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào. Địa hình của tỉnh Hà Tĩnh đa dạng, chủ yếu là đồi núi. Đồng bằng chỉ là một dải đất hẹp ở ven biển và xung quanh các trục đường Quốc lộ. Hà Tĩnh có tới 14 con sông lớn nhỏ và nhiều hồ nước. Với bờ biển dài 137km, nhiều bãi cát trắng trải dài rất tốt cho phát triển du lịch.
Hà Tĩnh có diện tích 6.053km2, dân số 1.269.013 người (1/4/1999), thủ phủ là thị xã Hà Tĩnh. Là một tỉnh có dân tộc chủ yếu người Việt, nên mang đậm nét văn hóa thuần Việt. Từ thời vua Hùng Vương, Hà Tĩnh đã là một trung tâm của nền văn minh Đông Sơn, là đất văn vật nổi tiếng thời Lê – Nguyễn. Đây là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi sản sinh bao nhân tài, danh nhân của nước Việt như: Đại thi hào Nguyễn Du, nhà thơ – nhà quân sự Nguyễn Công Trứ, Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, nhà sử học nổi tiếng Phan Huy Chú.
Đất Hà Tĩnh lưu giữ được kho tàng văn hóa dân tộc độc đáo và phong phú vào bậc nhất nước ta. Hàng ngàn câu hát dân ca, hát ví, hát dặm, là những cống hiến đặc sắc của vùng đất này vào kho tàng văn hóa Việt Nam.
Hà Tĩnh cũng là nơi nổi tiếng trong phong trào Cách mạng Việt Nam với các địa danh nổi tiếng như: Khu căn cứ Vũ Quang – với Bộ chỉ huy khởi nghĩa chống Pháp đóng và lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu trong suốt 10 năm. Nơi đây các vị lãnh đạo của phong trào Cần Vương như Phan Đình Phùng, Cao Thắng và các vị lãnh tụ khác bàn kế hoạch tác chiến. Đình Tứ Mỹ- là nơi tổ chức các cuộc đấu tranh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Ngã ba Đồng Lộc – nơi ngã xuống của 10 cô gái thanh niên xung phong trên cung đường Trường Sơn huyền thoại .
Cho dù đi đâu về đâu người Hà Tĩnh vẫn mang trong mình lời ca ngày nào:
“Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh
Nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông Lam, nhớ biển rộng quê ta”
Ngã Ba Đồng Lộc
“Xã Đồng Lộc có khoảng 630 hộ, ruộng đất canh tác có khoảng 717 mẫu 2 sào. Mà trong cuộc chiến tranh phá hoại vừa qua đã phải gánh chịu 2057 trận bom, vào ngày 15/8/1968 tới 17 trận bom”
Nằm ở địa phận huyện Can Lộc , Nghệ Tĩnh, Ngã Ba Đồng Lộc là một trong những cửa ngõ quan trọng để vào đường mòn Hồ Chí Minh, ra tiền tuyến. Chính vì vậy máy bay Mỹ đã điên cuồng trút xuống nơi đây 42.000 tấn bom, bom tạ, hòng ngăn chặn con đường nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ.
Trong chiến công thần kỳ nhằm duy trì sự sống của con dường huyết mạch chạy qua Ngã Ba Đồng Lộc, có phần đóng góp vẻ vang của 10 cô gái thanh niên xung phong trong tiểu đội 4, đại đội 552, đội 55. Tuổi đời từ 17-22, các cô đã gan góc đương đầu với bom đạn Mỹ qua 194 ngày đêm. Và trong một trận chiến đấu vì sự sống của con đường ra tiền tuyến, hồi 16h30 ngày 24/7/1958, 10 cô gái anh hùng ấy đã hy sinh.
Giờ đây, cảnh quan đã thay đổi đến kỳ lạ. Dãy An Trác không còn những hố bom sâu hoắm, đỏ nọc đến nhức mắt mà thay vào đó là bạt ngàn cây thông. Thông từ An Trác kéo dài cả dãy che mát cho mười cô gái và hàng trăm liệt sĩ khác. Thông làm thay đổi cả khí hậu và môi trường của cái vùng khí hậu đã khắc nghiệt mà bom Mỹ lại làm cho càng điêu tàn tưởng như không có sinh vật nào sinh sôi được. Trong những ngày chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của giặc Mỹ, người dân Đồng Lộc, Nghệ Tĩnh thường động viên nhau như vậy.
Bao nhiêu bước chân anh hùng đã qua và ra đi từ ngã ba này. Anh hùng Nguyễn Tri Ân, La Thị Tám, Đại đội anh hùng 551 Thanh niên xung phong, Tổ máy gặt Nông Xuân Lý, chiến sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ, Anh hùng lái xe Cao Bá Tuyết, Trần Văn Thi, Đại đội xe 806, và ở lại với ngã ba này chỉ có 10 cô gái. Mười cô gái anh hùng, trong đó có Võ Thị Tần, tổ trưởng lớn tuổi nhất cũng chưa quá 22 tuổi. Họ đứng đó, quây quần bên nhau trên một sườn đồi, cách ngã ba khoảng vài trăm mét. “Toàn dân đời đời ghi nhớ những người con chiến đấu dũng cảm đã hy sinh vì sự nghiệp vinh quang của Tổ quốc”. Dòng chữ đỏ sau hàng tên tuổi của 10 cô gái trên tấm bia ghi sự tích anh hùng của họ, Di tích lịch sử đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng, cứ long lanh ngời chói. Người ta đặt cho Ngã ba Đồng Lộc một cái tên thật gợi cảm: “Ngã Ba Đừng Quên”.
Trần Phú
Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Đông Dương, ông sinh ngày 1/5/1904 (có sách chép năm sinh 1903) tại Đức Phổ, Quảng Ngãi, nguyên quán thôn Tùng Ảnh, xã Việt Yên Hạ, Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Thuở nhỏ ông học ở Đức Phổ (vì thân phụ ông làm Tri huyện tại đó), Huế. Năm 1922, tốt nghiệp bằng Thành Chung, được bổ về dạy tại trường tiểu học Vinh (Nghệ An). Năm 1925, ông tham gia lập hội Phục Việt rồi gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đảng (sau đổi là Tân Việt). Có lúc ông sang Lào vận động thành lập chi bộ bên ấy…
Tháng 8/1926, ông sang Trung Quốc liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Tại đây ông được kết nạp vào Cộng Sản Đoàn rồi được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái cử về nước hoạt động với tư cách là người Cộng sản.
Năm 1927, ông được Đảng cử sang học tại trường Đại học phương Đông Moscow. Lúc này ông có tên mới là Likivơ và được chỉ định làm bí thư chi bộ ở trường.
Đầu năm 1930 ông về nước, được cử vào Ban chấp hành TW Lâm thời của Đảng. Thời gian này ông khởi thảo bản Luận cương Chính trị của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất của TW Đảng họp ở HongKong, ông được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Sau đó ông về nước hoạt động ở Sài Gòn. Đến ngày 19/4/1931 ông bị Pháp bắt tại đường Champagne nơi ông đang làm việc. Trong tù ông bị bệnh nặng và mất ở Bệnh viện Chợ Quán vào ngày 6/9/1931, hưởng dương 27 tuổi.
Núi Hồng Lĩnh
Là ngọn núi biểu trưng cho tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một dãy núi dài trên 27km có 99 ngọn tất cả. Không những thế trên dãy Hồng Lĩnh còn có tới khoảng 100 ngôi đền, miếu, chùa chiền. Có ngôi rất cổ như chùa Hương Tích hay chùa Chân Tiên nơi vẫn còn lưu chân người và dấu chân ngựa trên tảng đá: Tiên Giáng Trần. Phong cảnh hùng vĩ nên thơ của Hồng Lĩnh là nơi sinh ra nhà thơ vĩ đại của Việt Nam: Nguyễn Du.
Khu lưu niệm Nguyễn Du
Trước mặt làng là dòng sông Lam uốn khúc, phía sau là dãy núi Hồng Lĩnh. Khu lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng trên khoảng đất rộng chừng 20ha có nhà lưu niệm kiến trúc bằng gỗ mít, chạm trổ khá tinh vi, bên cạnh là nhà khách rộng. Chung quanh Khu lưu niệm trồng nhiều cây lâu năm, râm mát, đường đi rộng rãi. Trên một khoảng đất còn trồng các thứ cây mà Nguyễn Du đã nói tới trong truyện Kiều như: mai, mận, đào, liễu, lan huệ. Mộ hiện nay đặt ở một bãi cát vàng cách khu lưu niệm 3km.
Làng Tiên Điền vốn là vùng đất pha cát do sông Lam bồi đắp nên, từ mấy nghìn năm về trước tổ tiên của dòng họ Nguyễn Tiên Điền là ở ngoài Bắc và lập nghiệp từ cuối thời Mạc (thế kỷ 16). Trên mảnh đất ấy đã sản sinh cho đất nước nhiều vị đại khoa, văn thần, võ tướng, mà đỉnh cao nhất là cụ Nguyễn Nghiễm, thân sinh nhà thơ Nguyễn Du. Thời đó, thân sinh Nguyễn Du làm tể tướng triều Lê – Trịnh, anh cả là Nguyễn Khản giữ chức thị thư trong phủ chúa. Chính vì cả nhà làm quan nên Nguyễn Du sinh ở Thăng Long.
Nguyễn Du rời quê hương ra đi năm 1802, từ đấy cho đến lúc mất ông không về quê. Ông mất ở Phú Xuân, mộ chôn ở cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau, con cháu đem hài cốt về Tiên Điền, chôn ngay trong vườn nhà xưa. Năm 1928 mới cải táng đến xứ Đồng, cách nhà 2km về phía núi Hồng Lĩnh. Hiện nay, trên khu vực nhà xưa của Nguyễn Du đã được tôn tạo lại rất nhiều. Một mảnh vườn đất cát pha, rộng 3 sào, có cây Đại từ thời Nguyễn Du tới nay vẫn còn sống.
Tiên Điền là một làng nghèo miền Trung, nhưng rất thanh bạch, thoáng mát và nên thơ. Nhà cửa xóm làng sạch sẽ, xanh tốt. Dù là một nếp nhà nhỏ cũng có cổng nón giao cành bằng những bụi tre, bụi chuối rất trang nhã. Người Tiên Điền, già trẻ đều tỏ ra lịch sự và niềm nở với khách phương xa – nhất là khách đến thăm quê và viếng Nguyễn Du. Họ Nguyễn từ lâu đã biết gìn giữ những di sản văn hóa của tổ tiên. Bà con ở đây còn giữ được cả gia phả và bản Kiều bằng chữ Nôm chép tay rất giá trị. Đó là bản Kiều gồm 3.256 câu chữ nhỏ, chép công phu trên khổ sách 11x15. Bản truyện Kiều này do nghè Nguyễn Mai, cháu ba đời của Nguyễn Du chép giữ. Khi cụ Mai qua đời, ông Lê Liêu (người nhà cụ Mai) giữ, và năm 1962 đã trao cho cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu. Bản Kiều chữ Nôm này theo các nhà nghiên cứu về Nguyễn Du là bản chính xác nhất, trong đó có phần chú thích mà chính Nguyễn Du ghi lại trong khi nhàn nhã, để làm sáng tỏ thêm tác phẩm của mình.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên sinh ngày 3/1/1766, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng ông ra đời ở Thăng Long trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có nhiều người sáng tác văn học.
Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng giữ chức Tể tướng triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tân, vợ thứ 3 của Nguyễn Nghiễm (ông có 8 bà vợ và 21 người con cả trai lẫn gái)
Từ năm ra đời cho đến năm 10 tuổi, Nguyễn Du sống hết sức sung túc. Đến năm 10 tuổi cha mất, hai năm sau mẹ mất. Bốn anh em cùng mẹ với Nguyễn Du chưa ai tới tuổi trưởng thành nên phải sống nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản lớn hơn Nguyễn Du 32 tuổi, bấy giờ là quan lớn trong triều. Nhưng nhà Nguyễn Khản cũng không yên. Nguyễn Khản bị kiêu binh ghét nên khi ông được chúa Trịnh cử làm Tham Tụng thì họ kéo đến phá tan nhà của ông và toan giết chết ông. Ông chạy trốn lên Sơn Tây rồi về Hà Tĩnh. Thời gian này Nguyễn Du còn nhỏ tuổi vẫn tiếp tục đi học. Năm 1783 Nguyễn Du 18 tuổi thi Hương đậu tam trường, sau đó không biết vì lẽ gì không thấy ông học lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyên, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần.
Khoảng 30 năm cuối thế kỷ 18 nước ta hết sức rối ren. Triều đình Lê - Trịnh có nguy cơ sụp đổ, nên Lê Chiêu Thống cử người sang cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh nhân cơ hội này đem quân sang xâm chiếm nước ta. Năm 1789, Nguyễn Huệ trong Nam kéo quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Lê Chiêu Thống cùng với một số quan triều đình bỏ nước chạy theo quân xâm lăng sang Trung Quốc. Ba anh em cùng mẹ với Nguyễn Du chạy theo Lê Chiêu Thống không kịp, Nguyễn Du bỏ về quê vợ ơ Thái Bình. Nguyễn Du nơm nớp lo sợ bị nhà Tây Sơn trả thù, nên ông mai danh ẩn tánh. Sau đó ông về Tiên Điền sống một thời gian dài cho đến năm 1802, Gia Long lật đổ nhà Tây Sơn. Suốt thời gian dài ở Thái Bình cũng như khi về ở Hà Tĩnh, Nguyễn Du sống long đong vất vả. Nhiều lần ông phải ăn ở nhà người khác, có lúc bệnh không có thuốc uống. Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên Thi Tập được ông viết trong những năm tháng này. 8/1802, Gia Long có chiếu bổ Nguyễn Du làm tri huyện Phù Dung rồi thăng tri phủ Thường Tín, Nguyễn Du không muốn làm quan, nhưng nhiều lần triều đình mời gọi, bất đắc dĩ phải làm quan. Truyện Kiều của ông có thể viết trong thời gian này. Năm 1813, Nguyễn Du được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm chánh sứ, cầm đầu một phái đoàn của ta đi Trung Quốc. Trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã viết tập Bắc Hành Tạp Lục. Đây là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất của ông. Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi định cử Nguyễn Du làm chánh sứ đi Trung Quốc một lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì ông mất đột ngột 18/9/1820 trong một trận dịch rất lớn.
Ông đã có công đưa chữ Nôm lên một tầm cao mới với kỹ thuật dùng từ điêu luyện đặc sắc qua cách dùng các từ điệp, tượng thanh, tượng hình một cách tinh tế hài hoà. Năm 1966, UNESCO công nhận ông là Danh nhân văn hoá thế giới nhân dịp 200 năm ngày sinh của ông (lúc đó người ta lầm Nguyễn Du sinh năm 1766)
Lê Hữu Trác
Ông sinh 1720 mất năm 1792, ông người làng Liêu Xá huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Mỹ Văn tỉnh Hưng Yên). Ông còn có tên Lê Hữu Huân, lại là người con thứ 7 của Thượng Thư Tiến sĩ Lê Hữu Mưu nên đời vẫn thi thoảng gọi ông là Chiêu Bảy. Ông có hiệu là Hải Thượng Lãn Ong và tên hiệu trở thành tên gọi phổ biến nhất. Ông tuy sinh tại làng Tiên Xá nhưng ông sống chủ yếu tại quê mẹ là làng Tinh Diệm (nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Suốt đời gần như ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu y học. Ông đã để lại cho đời nhiều trước tác có giá trị, đặc biệt là bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh Thượng Kinh Ký (66 quyển). Ông còn là một nhà văn tài hoa, tác phẩm Thượng Kinh Ký Sự của ông được người đời tán thưởng.

Trên đất nước Việt Nam có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như là: Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Bến Nhà Rồng,... Nhưng có một nơi rất nổi tiếng ở quê hương tôi đó là Vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh.

Vịnh Hạ Long là một tuyệt tác đã có từ rất lâu do thiên nhiên tạo thành.  Vịnh có rất nhiều hang động, có động nước và động khô. Bên trong những hang động có rất nhiều đá vôi. Ngoài ra, còn có rất nhiều đảo và cồn đá. Để đi ra được những hang động đó bạn cần phải đi xuồng hoặc đi bằng thuyền. Mặt nước ở Vịnh Hạ Long rất đẹp. những làn sóng nhẹ nhàng đánh vào bờ tạo nên một khung cảnh thơ mộng khi bạn đứng ngắm Vịnh Hạ Long. Chiều về bạn có thể thấy hoàng hôn từ phía xa chiếu lên mặt nước như đang có đến tận hai mặt trời. Vì thế, mà Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Hằng năm, hàng ngàn người khắp thế giới đi đến Vịnh Hạ Long đế du lịch. Vịnh Hạ Long đã thu hút du khách trên khấp thế giới. Vịnh Hạ Long được coi là cái nôi của nước Việt Nam về nền lịch sử khảo cổ lâu đời. Ngoài ra, Vịnh Hạ Long còn có những hòn và tập trung nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có nhiều khu lịch sinh thái với hàng ngàn động vật dưới nước phong phú. Tên gọi của Vịnh Hạ Long đã thay đổi qua rất nhiều thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải sau đó được người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay.

Từ trên cao nhìn xuống, Vịnh Hạ Long như một bức tranh tuyệt hảo do thiên nhiên tạo thành gồm có những hang động và những hòn. Bên trong là những hang động người ta có thể tham quan, ngắm cảnh. Có những thạch nhũ có hình thù kì lạ do thiên nhiên tạo ra bên trong hang. Vịnh Hạ Long nhìn từ xa thấy như những người lính khổng lồ canh giữ biển Việt Nam. Mỗi buổi sảng, những chú chim én lại đi kiếm mồi và cho con người tổ của mình để có thể bồi dưỡng cơ thểVịnh Hạ Long nhiều lần cũng đã trở thành địa điểm lý tưởng của các nhà làm phim và các diễn viên.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những trường hợp vút rác bừa bãi làm ô nhiễm môi trường làm mất đi nét đẹp văn hoá của Việt Nam. Để đảm bảo mọi người không vứt rác bừa bãi cùng đã có những thùng rác đổ bỏ vào. Người ta còn làm sạch nước sông và cọ rửa các hòn đảo.

Vịnh Hạ Long đúng là một cảnh đẹp thiên nhiên trên thế giới. Tôi tự hào là một người ở Quảng Ninh và sở hữu một cảnh đẹp thiên nhiên thế giới.

11 tháng 2 2019

1) Mở bài: Giới thiệu về danh lam thắng cảnh mà em dự định sẽ thuyết minh.

2) Thân bài.

  • Giới thiệu nguồn gốc của khu di tích: Có từ bao giờ, ai phát hiện ra? đã kiến tạo lại bao giờ chưa?
  • Giới thiệu vị trí địa lí, đặc điểm bên ngoài (nhìn từ xa hoặc nhìn từ trên).
  • Trình bày về đặc điểm của từng bộ phận của khu di tích: Kiến trúc, ý nghĩa, các đặc điểm tự nhiên khác thú vị, độc đáo,...
  • Danh lam thắng cảnh của quê hương bạn đã đóng góp như thế nào cho nền văn hoá của dân tộc và cho sự phát triển nói chung của đất nước trong hiện tại cũng như trong tương lai (làm đẹp cảnh quan đất nước, mang lại ý nghĩa về giáo dục, ý nghĩa tinh thần, mang lại giá trị vật chất,...).

3) Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp nhiều mặt của danh lam thắng cảnh đó.

22 tháng 3 2023

là dạng thuyết minh nha bạn nhưng sẽ có kết hợp với yếu tố miêu tả

29 tháng 4 2020

Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: "Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh". Mới đây vịnh Hạ Long còn dược UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?

Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.

Bài này ngắn lắm rồi bạn

29 tháng 4 2020

thanks bạn nha

17 tháng 3 2022

vâng có kiến thức mạng nhưng mình vẫn tự làm nha:

Thưa các bạn đây là Sông Đà của Việt Nam Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông dài 927 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Dòng chính bắt nguồn từ núi Vô Lượng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ Đứng bên cạnh dòng Sông Đà ta có thể thấy quang cảnh nơi đây thật đẹp,không khí của trời đất được gắn liền với con sông này.Khi đến nơi đây ta có thể cảm nhận được sự yên bình mà mỗi người tìm kiếm,rất mong các bạn hãy xem đây là nơi du lịch lí tưởng để ghé thăm Sông Đà thường xuyên (thuyết trình trực tiếp)

18 tháng 3 2022

Bạn có thể viết đầy đủ được không

2 tháng 3 2022

Tham khảo:

Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây  tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua HùngNếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ.

2 tháng 3 2022

Tham khảo: 

Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.

Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất.

Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành công.

Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ.

Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng.

20 tháng 1 2017

Đền Lảnh Giang thuộc thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên bên bờ hữu ngạn sông Hồng, sát cạnh chân đê nối với các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Nam Định nên rất thuận tiện cho giao lưu bằng đường sông và đường bộ.

Đền Lảnh Giang thờ 3 vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Căn cứ vào cuốn thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (Sự tích ra đời của một vị thuỷ thần triều vua Hùng) cùng sắc phong câu đối,truyền thuyết của địa phương thì ba vị tướng này đều là con của Bát Hải Long Vương và nàng Quý. Khi giặc phương bắc kéo tới bao vây bờ cõi đánh chiếm nước ta, định cướp ngôi báu của Hùng Duệ Vương thì ba ông đã giúp vua Hùng đánh tan giặc giữ yên bờ cõi giang sơn.

Cùng với việc thờ ba vị tướng thời Hùng, đền Lảnh Giang còn thờ Tiên Dung công chúa con gái vua Hùng và thờ Chử Đồng Tử một trong bốn vị thần bất tử của dân tộc. Câu chuyện tình của hai người là một “Thiên tình sử” đẹp, được dân gian phủ lên chất huyền thoại lung linh.

Đền Lảnh Giang là một công trình kiến trúc quy mô mang đậm nét phong cách cổ truyền của dân tộc. Tổng thể kiến trúc gồm ba toà với 14 gian lớn nhỏ làm theo kiểu chữ Công. Hai bên có nhà khách, mặt bằng nội công ngoại quốc. Đặc biệt toà Trung đường làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái cong…

Bàn tay khéo léo của các nghệ nhân xưa đục, chạm, gọt, tỉa tạo nên các mảng trạm khắc với các đề tài tứ linh (Long, Ly ,Quy, Phượng) cổ kính trang nghiêm và thanh thoát sinh động.

Trong quần thể di tích đền Lảnh Giang còn có đền Cửa Sông (Đền cờ) cách đền Lảnh Giang độ 50m về phía đông. Đền Cửa Sông cũng là một công trình kiến trúc đồ sộ làm theo kiểu chồng diêm mái cong lợp ngói nam, mặt tiền giáp với sông hồng, cảnh quan thật thơ mộng, sóng nước dạt dào.

Không xa đền Lảnh Giang về phía tây qua đê là đền thờ vua Lê. Sắc phong còn lại ở đền cho biết, đây là ngôi đền thờ vua Lê Thái Tổ Cao Hoàng đế. Sở dĩ dân lập đền thờ, vì vua Lê đã về đây để kiểm tra các quan lại của địa phương việc thi hành các luật lệ của Triều đình. Tại khu vực đền vua Lê còn có các địa danh như: khu vườn vua, khu sân chơi, khu mâm sôi đắp rồng chầu phượng múa, khu dinh ngự…đã phần nào chứng minh sự kiện vi hành của vua.

Đến thăm quần thể di tích đền Lảnh Giang du khách sẽ có dịp dự lễ hội của đền. Lễ hội hàng năm mở cửa vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 hàng năm. Tục lệ xưa: Ngày 18 nhân dân địa phương tổ chức chồng kiệu, kéo cờ thần trước cửa đền, Những ngày sau là công việc chuẩn bị cho tế lễ. Ngày 21 làm lễ cáo kỵ, từ 22 – 24 là chính tế, ngày 25 lễ tạ, hạ cờ. Đồ tế thường là cỗ chay, lợn đen, rượu, hoa quả, bánh trái…

Cùng với tế lễ, địa phương còn tổ chức rước kiệu thánh xung quanh đền. Trong những ngày tế chính nhân dân các thôn xã lân cận Hoàn Dương, Đô quan, đền Yên Từ - nơi thờ Nguyệt Hoa công chúa đệ nhị cung tần vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương) cũng đều chồng kiệu rước về đền Lảnh Giang bái vọng.

Phần hội được tổ chức phong phú đa dạng với các trò chơi truyền thống như múa rồng, múa lân, múa sư tử, võ thuật, đánh gậy, chọi gà, tổ tôm điếm, bắt vịt dưới nước, cùng các hoạt động văn nghệ như chiếu chèo sân đền…

Bên cạnh các trò chơi truyền thống, các hoạt động văn hoá thể thao diễn ra càng làm tăng thêm không khí tưng bừng của ngày hội như thi đấu cầu lông, bóng bàn, bóng truyền, bóng đá và các tối giao lưu văn nghệ giữa các thôn trong xã và giữa các xã trong huyện.

Lễ hội đền Lảnh Giang là dịp để nhân dân tưởng nhớ những người có công với dân với nước, đồng thời động viên mọi người phấn đấu yên tâm xây dựng gia đình, quê hương đất nước.

Từ lâu đền Lảnh Giang vẫn được coi là nơi linh thiêng. Khách đến đề Lảnh Giang không chỉ vào hai kỳ tháng 6 và tháng 8 mở lễ hội, mà những năm gần đây diễn ra hầu như quanh năm. Khách ở nhiều tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải Phòng , thành phố Hồ Chí Minh …về đây để được đáp ứng nhiều nhu cầu: tín ngưỡng, tâm linh, tìm hiểu lịch sử, thưởng ngoạn cảnh đẹp…

Với vị trí địa lý thuận lợi, đền Lảnh Giang nằm kề ngay sông Hồng, trong một vùng có nhiều di tích và dấu ấn lịch sử, cảnh quan thơ mộng trên bến dưới thuyền, đối diện bên kia sông Hông là phố Hiến (Hưng Yên) nổi tiếng một thời “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến”, đền Lảnh Giang đã và đang tạo sức hút đối với du khách xa gần.

CHÙA BÀ ĐANH- NÚI NGỌC

Vị trí: Chùa Bà Đanh - núi Ngọc thuộc thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Đặc điểm: Chùa thờ Bà Chúa Đanh (thần Pháp Vũ) nổi tiếng linh thiêng.Ngôi chùa cách thị xã Phủ Lý 10km, nằm ở phía hữu ngạn sông Ðáy. Khu danh thắng này có diện tích khoảng 10ha, với phong cảnh trời mây sông nước hữu tình, ở xa làng xóm nên tĩnh mịch. Ngôi chùa hướng chính nam nhìn ra dòng sông Đáy nên thơ. Tương truyền chùa có từ thế kỷ thứ 7, ban đầu nơi đây là một ngôi đền nhỏ thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Đến đời vua Lê Hy Tông (1675-1705), đền được xây dựng lại to đẹp khang trang hơn. Người dân thấy phong cảnh đẹp, đền linh thiêng nên chuyển ngôi đền ở vị trí thường bị ngập lụt và rước tượng Phật về phối thờ, từ đó gọi là chùa Bà Đanh. Một trong số báu vật ở đây là bức tượng Bà Chúa Đanh (thần Pháp Vũ) tư thế ngồi trên ngai, toàn bộ đặt trên một gốc cây to; nhiều di vật khác được lưu giữ mang phong cách thời Lý - Trần.Sau khi thắp hương ở chùa, du khách đi tiếp lên đỉnh núi Ngọc, qua khu vườn cây trái xum xuê, trong đó có cây si già ngàn năm tuổi.Với cảnh quan trời mây sông nước hữu tình, lại có chùa Bà Đanh rất linh thiêng, điểm du lịch này ngày càng thu hút đông đảo khách thập phương đến lễ Phật và vãn cảnh.

Từ thị xã Phủ Lý qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21, đến cây số 11, rẽ trái 500m là tới hang. Trước cửa hang, có hai quả núi thấp đứng đối nhau tạo nên một cửa đá đồ sộ chắn ngang trước cửa hang. Mặt bằng trước hai quả núi này rất rộng, đây là một điểm dừng chân lý tưởng để ngắm toàn cảnh khu vực núi non và hang Luồn. Đây là khu vực được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi cao, ở giữa thung lũng này nổi lên một dãy núi thấp, dãy núi này có hang Luồn. Miệng hang Luồn chính là mặt trước của dãy núi nhìn ra cửa đá.Trước mặt hang là một bãi đất rộng có một con kênh lớn chứa nhiều nước. Về mùa mưa, đây là một bến thuyền. Mùa cạn có thể vừa đi thuyền, vừa đi bộ xuống cửa hang. Nguồn nước ở đây từ các khe núi cao đổ xuống, tỏa vào các kênh, các mạch ngầm rồi dẫn ra sông Đáy. Chính vì vậy, nước rất trong và sạch, có thể nhìn thấu đáy. Về mùa mưa, nước dâng lên sát trần hang nhưng cũng chỉ chốc lát là rút hết, chỉ giữ lại một lượng nước vừa đủ để vào hang.

Miệng hang Luồn có hình vòm vách núi, chỗ nhô ra, chỗ lõm vào, chỗ thì chạy thẳng xuống lòng hang, vách thì uốn cong. Đặc biệt có vô số các nhũ đá hình thù muôn vẻ, cái từ trần hang rủ xuống, cái từ vách đá chồi ra kéo dài suốt chiều dài cửa hang. Chiều dài hang Luồn khoảng 400m, chiều rộng của hang vừa đủ cho một đoàn khách đi thuyền ngắm các vách núi với các nhũ đá kỳ lạ và nghe tiếng nước rỏ tí tách. Trong ánh sáng mờ ảo du khách sẽ cảm thấy bập bềnh, rồi du thuyền sẽ đưa du khách tới một không gian mở ra choáng ngợp khi gặp ao Dong.

Ao Dong rộng khoảng 300 mẫu, nước trong vắt có thể nhìn thấy từng con cá bơi, thấy cả thảm thực vật, đặc biệt là các loài rong núi, ngay cả ở mực nước sâu tới 3m. Ao Dong được tạo nên bởi các dãy núi cao, với rừng cây bên sườn núi. Động vật ở đây khá đa dạng, cỏ trắng, sơn dương rất nhiều tạo thêm sự sinh động hấp dẫn cho cảnh quan. Các ngọn núi in bóng xuống làn nước trong vắt của ao Dong tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.

Hang Luồn, ao Dong với sự kết hợp hài hòa của núi non cây cỏ, trời xanh, nước biếc, quần thể động thực vật hoang dã phong phú là điểm du lịch sinh thái có giá trị của tỉnh Hà Nam.

Ngũ Động Sơn thuộc xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng.Từ thị xã Phủ Lý, đi ngược thuyền sông Đáy 8km là đến động, hoặc từ Phủ Lý qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21, đến cây số 8 là tới cửa động.

Ngũ Động Sơn là năm hang nối liền nhau tạo thành một dãy động liên hoàn có chiều dài hơn 100m trong một lòng quả núi. Núi này có tên là núi Cuốn Sơn (Quyển Sơn) vì liên quan tới truyền thuyết về lá cờ của Lý Thường Kiệt bay lên núi và cuốn lại trên núi.

Núi còn có tên là Cấm Sơn vì núi này rất thiêng, không ai dám động vào một cây cỏ, cành khô trên núi, trên núi tương truyền có cỏ thi để chữa bệnh nên núi còn gọi là Thi Sơn. Hang Ngũ Động nằm trong lòng núi Cấm thuộc địa phận xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng.

Trong các động có rất nhiều thạch nhũ hình thù khác nhau, kiểu dáng xuất hiện, màu sắc, da nhũ, độ xốp, độ bóng của các hình nhũ cũng rất khác nhau. Có cái mọc chồi từ vách động, khe động, có cái rủ từ trên trần xuống, có cái nhô lên từ mặt nền. Có những nhũ đá ẩn sâu vào bóng tối, khi có ánh đuốc rọi vào, do hơi nước phản chiếu, ánh lửa ngời lên như châu ngọc. Có những phiến thạch nhũ bên trong rỗng, có nhiều hang hốc ăn thông với nhau, khi đánh vào nghe như tiếng đàn, tiếng trống, tiếng chiêng. Nếu bề dày của phiến đá lớn, chúng sẽ phát ra những âm thanh trầm, còn nếu bề dày của những phiến đá mỏng hơn thì chúng sẽ phát ra những âm thanh trong trẻo ngân nga.

Trên các bức vách của động thiên nhiên kỳ thú đã vẽ nên nhiều cảnh tượng đẹp, gợi những tưởng tượng sinh động về cuộc sống con người và cuộc sống xung quanh. Động 4 có một lối nhỏ ra một cái giếng có độ sâu vừa phải, nước trong vắt, có thể nhìn thấy cá đang bơi. Đây có thể là nơi tiêu nước của toàn động trong quá trình lòng núi bị bào mòn và rất có thể đáy giếng có đường ăn thông ra sông Đáy ở phía dưới chân núi Cấm. Lối vào động thứ 5 có những thạch nhũ tạo thành 3 cái cửa tự nhiên cách biệt nhau bởi những cột đá, mỗi cửa có thạch nhũ rủ xuống như những chiếc rèm cửa, có cửa có hình thạch nhũ như đôi voi đang chầu.

Núi Cấm, do không ai chặt cây cối nên đã giữ được một thảm thực vật phong phú, có nhiều cây to, nhiều cây dây leo phủ kín đồi. Trên đỉnh núi còn có một bàn cờ thiên tạo bằng đá. Từ đây có thể phóng tầm mắt ra xa để bao quát toàn bộ vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của vùng nước non này.

Quần thể di tích thắng cảnh Bát cảnh sơn nằm ở xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà Nam.

Từ thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13km là đến quần thể danh thắng Bát cảnh sơn (hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60).

Xã Tượng Lĩnh được thiên nhiên ưu đãi với địa hình tự nhiên có nhiều tiềm năng phong phú. Dãy Bát cảnh sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung Nam Công (Kim Bảng – Hà Nam và Tuyết Sơn, Hương Tích – Hà Tây), tạo thành thế núi hình sông kỳ thú. Xét theo tổng thể ở phạm vi rộng thì Bát cảnh sơn là một cụm du lịch của quần thể Hương Sơn bởi hai thắng cảnh này rất gần gũi, tiếp giáp với nhau liền mạch trong dãy núi đá vôi Hà Nam – Hà Tây. Theo vị trí địa lý hành chính. Bát cảnh sơn là "tiểu thắng cảnh", là cửa ngõ Hương Sơn, nằm trong xã Tượng Linh, nơi ngã ba của 3 huyện Kim Bảng (Hà Nam), Mỹ Đức, Ứng Hoà (Hà Tây).

Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Có thể do tám ngôi chùa mà vùng núi này được đặt tên là Bát cảnh sơn? Ngày nay, mặc dù một vài cảnh quan đã bị hủy hoại vì chiến tranh nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch thập phương vẫn về thăm với một số lượng khá đông.

21 tháng 1 2017

Bạn đã từng nghe đến địa danh " Vịnh Hạ long trên núi"? đó chính là hồ Hòa Bình, được hình thành từ việc đắp đập ngăn sông, chinh phục thiên nhiên. Sông Đà hung dữ nay đã trở thành hồ nhân tạo hiền hòa, lớn nhất Đông dương và là khu du lịch hấp dẫn. Hồ có diện tích rộng lớn (230 km), núi non trùng điệp, mây trắng bồng bềnh và hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, hai bên bờ ẩn hiện những bản dân tộc còn nguyên bản sắc đã tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Du khách có thể nghỉ lại trên thuyền để ngắm trăng trên một vùng sông nước mênh mông, hay trên các nhà sàn để nghe hát dân ca, thưởng thức rượu cần, các món đặc sản dân tộc và nhảy múa cùng các chàng trai, cô gái miền sơn cước.
Với kế hoạch xây dựng hồ Hoà bình trở thành khu du lịch Quốc gia gồm nhiều loại hình du lịch phong phú: du thuyền, bơi mảng, câu cá, leo núi, thám hiểm hang động, đi bộ thăm các làng dân tộc… chắc chắn nơi đây sẽ là điểm đến lý tưởng của du khách.


SUỐI KHOÁNG KIM BÔI
Cách thành phố Hòa bình 30 km, vượt qua dốc Cun để đến Kim bôi, du khách vừa có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố Hòa bình, lại vừa thỏa thuê ngắm nhìn phong cảnh núi rừng thơ mộng trong suốt cuộc hành trình.
Khu du lịch nước khoáng nóng Kim bôi được xây dựng trên dòng suối nóng ngầm phun lên từ lòng đất, nhiệt độ 34 độ c và mang nhiều khoáng chất nên rất tốt cho sức khỏe con người. Tại đây, du khách vừa được uống nước khoáng trực tiếp từ suối vừa được tắm trong những bể tắm hiện đại dành cho cá nhân, gia đình, tập thể. Nhiều người đến đó kết hợp vừa đi du lịch vừa dưỡng sinh hay chữa bệnh.

KHU DU LỊCH SINH THÁI V-RESORT
Rời Hà Nội chưa đầy 40 km, từ ngã ba Bãi Lạng ( Lạng sơn) men theo con đường bao phủ một bên là núi rừng trùng điệp, một bên là những con suối đẹp như tranh, khu Du lịch sinh thái V-Resort nằm đắm mình trong thiên nhiên còn đầy vẻ nguyên sơ của rừng nói Hoà Bình. Những trang trại rau trái mang đến cho bạn một không gian thanh bình bậc nhất Việt Nam với những biệt thự, nhà sàn dân tộc độc đáo, nhà tranh đồng quê ẩn giữa bạt ngàn hoa ly. Các khu nhà của V-Resort được trang trí theo phong cách dân tộc với chất liệu chủ đạo là mây tre đan thể hiện sự tinh tế, hoà quyện vào thiên nhiên.
Tại đây, để thư giãn bạn có thể câu cá, đạp xe, leo núi, chơi golf, chơi tennis hay vùng vẫy tại bể tắm nước khoáng nóng tự nhiên dâng từ lòng đất. Khi màn đêm buông xuống, bên ánh lửa trại, bạn lắng nghe những câu chuyện của người xưa và ngắm nhìn các cô gái dân tộc ca hát, nhảy múa quanh ánh lửa bập bùng và thưởng thức những món ăn tươi ngon của Việt Nam được các đầu bếp nổi tiếng chế biến từ thực phẩm được nuôi trồng tại trang trại hay hay tận hưởng các dịch vụ quốc tế cao cấp
KHU DU LỊCH SINH THÁI THÁC THĂNG THIÊN
Từ thành phố Hà nội ngược lên Tây bắc, qua thị trấn Lương sơn, vượt qua dốc Kẽm là tới khu Du lịch Sinh thái Thác Thăng Thiên. Khu du lịch mới được đưa vào khai thác từ cuối năm 2007, được biết đến bởi cảnh quan thơ mộng, không gian yên bình và ấm cúng. Du khách có thể leo núi để khám phá vẻ đẹp kỳ vĩ của những dòng thác chảy suốt ngày đêm, hay tản bộ bên những dòng suối trong veo, nước chảy róc rách cùng với tiếng chim rừng gọi bạn, tiếng lá cây rì rào để tạm quên đi những âm thanh ồn ào của phố phường.