K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 3 2020

Trang giang là một bài thơ tiêu biểu của Huy Cận trước cách mạng. Nó thể hiện một nỗi buồn thấm thìa tới tận đáy hồn nhân thế của Thơ mới. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cho thấy nỗi buồn ở đây mang tầm vóc vũ trụ và cảm hứng về không gian sẽ là cảm hứng chủ đạo chi phối hồn thơ Huy Cận trong bài thơ này.

B - THÂN BÀI

Theo lời của tác giả, cảm hứng của bài thơ đã bắt đầu vào một chiều thu năm 1939. Khi đó tác giả đứng ở bờ phía Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng mà nghĩ về kiếp người thật nhỏ bé cô đơn và không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên sông Hồng chỉ là sự gợi cảm. Bài thơ còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác trên đất nước quê hương. Cảnh sông ở bài thơ tuy buồn nhưng đẹp và cũng thật quen thuộc với người Việt Nam.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Âm hưởng chung của khổ thơ bàng bạc không khí Đường thi cổ điển.

Ngay dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã bắt gặp từ Hán Việt “tràng giang”. “Tràng giang” tạo nên một âm hưởng xa xôi: Có con sông đấy nhưng dường như nó không có thực. “Tràng giang” còn gợi ý niệm về không gian “con sông dài”. Nó gợi cả ý niệm về thời gian: con sông ấy có từ khi nào? Có lẽ nó chảy triền miền từ khi có vũ trụ, từ quá khứ và sẽ còn chảy mãi khi lớp người đang sống hôm nay sẽ trở thành thiên cổ. Tác giả không dùng từ “sông dài” bởi quá nôm na và cũng không gọi là “trường giang”. Có lẽ 2 vần “ang” đã tạo nên một cộng hưởng gợi lên sự trống vắng mênh mang của lòng người. Mặt khác, trong tâm thức văn hóa của người Việt, đất nước và thôn xóm đã hình thành bên dòng trànggiang như thế cho nên câu thơ dã gợi hình ảnh tượng trưng cho non sông đất nước muôn đời.

Trên dòng tràng giang ấy, những con sóng không dữ dội, nó chỉ gợn lên. Thế nhưng dòng sông lại được nhân hóa với nỗi buồn “điệp điệp”. Hai tiếng “điệp điệp” gợi hình ảnh về 2 con sóng kế tiếp vào nhau cứ đuổi nhau xa mãi nơi chân trời. Hơn thế nữa, “điệp điệp” tạo nên một không gian bao la bát ngát của dòng sông, quyện nỗi buồn cảnh vật với hồn người. Mỗi con sóng mang một tâm sự buồn, cả con sông đầy sóng là hằng hà sa số những nỗi buồn. Thật ra nhìn tràng giang như một sinh thể đầy tâm tư buồn là do chính nỗi buồn từ trong lòng nhà thơ lan tỏa - à trải dài trên sóng nước. Đó là một nỗi buồn vô tận triền miên hết lớp này đến lớp khác không thôi.

Ba câu thơ tiếp theo gợi sâu hơn nỗi buồn đó. Ở đây xuất hiện ba hình ảnh được nhà thơ quan sát trên dòng tràng giang. Đó là một con thuyền xuôi mái dường như trôi song song với dòng nước tưởng như nước không có quan hệ gì với thuyền.

Hình ảnh tiếp theo cho thấy sự mâu thuẫn giữa thuyền và nước: nếu thuyền về thì nước lại. Và hình ảnh cành củi khô trơ trọi kết thúc khổ thơ. Đến đây ta chợt nhớ câu thơ quen thuộc của Bà Huyện Thanh Quan: “Gác mái ngư ông về viễn phố”, ta mới thấy câu thơ của Huy Cận mới hơn, nỗi buồn thấm thìa hơn. Dù gác mái nhưng trên thuyền vẫn có bóng ngư ông, nghĩa là vẫn có con người. Con thuyền vẫn có bến xác định là “viễn phố”. Còn trong câu thơ của Huy Cận, con thuyền vừa không có dáng người vừa vô định. Miêu tả sự vật (thuyền) vốn gắn bó với đời sống con người mà lại không có con người tạo nên một cảm giác rờn rợn về thế giới loài người đã mất. Thuyền và nước vốn gần gũi với nhau nhưng không phải bao giờ cũng gắn bó vì mỗi con sóng chỉ xuôi theo thuyền trong chốc lát, vì những dòng nước trên tràng giang sẽ chia ra trăm ngả xa xôi. Nỗi buồn ở dòng thơ thứ 3 là nỗi buồn của sự tan tác chia li. Thực ra thuyền cũng không biết nhờ đâu mà trôi chỉ biết rằng nước song song không đi với thuyền. Do đó “thuyền về” đối ứng một cách trớ trêu với “nước lại”. Câu thơ rất dễ gợi đến nghịch cảnh mà Hàn Mặc Tử đã chua chát.

Gió theo lối gió, mây đường mây .

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Nỗi buồn được đẩy lên cao hơn khi xuất hiện dòng nước.

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Hiện tượng đảo ngữ đã dồn thông báo vào từ “củi”, nó gợi cả một thân phận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ là một cành cây xanh tươi mà giờ đây chỉ còn là một cành củi khô bập bềnh trên sóng - những cá thể cũng rất cô đơn. Cành củi ấy rất thụ động, nó bị xô dạt theo những dòng tràng giang. Thân phận của cành củi trải qua bao đau thương khô héo, bao trôi dạt đổi thay. Đến đây khổ thơ đã tạo nên cái tương phản giữa sự mênh mang vĩnh hằng của không gian với sự nhỏ bé

của cành củi. Tất cả chỉ làm sâu thêm nỗi sầu nhân thế của nhà thơ trên dòng tràng giang cuộc đời. Mỗi kiếp người có khác gì cành củi khô kia cũng mong manh đơn độc, cũng lênh đênh trôi dạt không biết về đâu.

Câu thơ thứ nhất tả sóng, câu hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên sông Đọc câu thơ thứ nhất ta thấy những vòng sóng đang loang ra, gối lên nhau, xô nhau đến chân trời thì ở câu thứ hai mở ra những luồng nước song song rong ruổi mãi về cuối trời. Trên sóng nước muôn trùng ấy hình ảnh con thuyền trôi im lìm được nhấn đậm nét bằng hình ảnh một cành củi khô bơ vơ lạc nẻo.

Vào đến khổ thơ thứ 2, Huy Cận đã vẽ thêm nhiều nét rất cụ thể để diễn tả sự mênh mang lạnh lẽo xa vắng của dòng sông bằng cách miêu tả nỗi buồn của cảnh vật.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

“Lơ thơ... đìu hiu”là không gian kề cận của bờ tràng giang. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là một không gian vời vợi, cách rất xa dòng tràng giang.

Dường như dòng sông đang chảy qua một nghĩa địa, ở nơi ấy chỉ có gò mả ngổn ngang. Những cồn nhỏ lụp xụp bên bờ sông đã gợi một sự trơ trụi trống vắng. Nó vừa có sự thưa thớt rải rác trong từ “lơ thơ” lại vừa gợi cảm. “Cồn nhỏ lơ thơ” còn có một sức gợi, hình như những cồn nhỏ ấy đang lừ đừ trôi không phải trên dòng nước mà trong một sức mạnh thần bí của dòng đời. Điều cảm nhận này chúng ta có thể đọc được trong bài ca quan họ “Sông Cầu nước chảy lơ thơ”. Cái cồn nhỏ lơ thơ ấy đáng ghê sợ và lạnh lẽo hơn bởi có ngọn gió đìu hiu đầy âm khí làm bầu bạn. Từ “đìu hiu” gợi cõi âm đáng sợ rất ghê rợn đưa chúng ta đến thế giới _ khác, không phải thế giới cuộc đời. Chính Huy Cận cho rằng, khi ông viết câu thơ này, ông bị ám ảnh bởi “Chinh phụ ngâm”: “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Từ láy đìu hiu rất dễ gợi không khí tang tóc. Xuân Diệu từng viết: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”.

Dòng thơ thứ 6 là một câu hỏi khắc khoải về một không gian ấm áp tình người “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đây là không gian giả định, không gian mơ ước, một không gian mà nhà thơ muốn dứt ra khỏi cõi hãi hùng của cồn nhỏ, của gió đìu hiu. Thế nhưng cố gắng lắng nghe thì tiếng làng xa, tiếng của đời thường hoàn toàn không có. Tuyệt vọng hơn là cầu mong những tiếng lơ thơ thưa thớt của phiên chợ vãn cũng không có nốt. Phiên chợ vãn buổi chiều của thôn quê Việt Nam ngàn đời vốn rất tiêu sơ và ảm đạm. Nó không giống như một phiên chợ “lao xao chợ cá làng ngư phủ” của Nguyễn Trài. Chợ vãn gợi nên cái buồn nhưng dù sao vẫn còn dấu vết của con người. Ở đây ngay cả cái tiếng của phiên chợ ấy cũng không có. Nỗi buồn nhân thế được nhân lên gấp bội.

Hai câu thơ sau hướng về không gian trống không của vũ trụ:

Nắng xuống... chót vót

Sông dài... cô liêu

Có một cái trục tung được dựng thẳng đứng lên. Nhờ nắng xuống mà ta thấy trời lên, lên đến mức làm ta choáng ngợp ngỡ rằng đang nhìn xuống trái đất như là một đỉnh núi mà vũ trụ thăm thẳm như một thung lũng ở phía dưới.

Có một cái trục hoành cắt ngang đó là một dòng sông dài và bầu trời cứ mở rộng ra thành bến hoang lạnh cô liêu khiến cho dòng sông hoang vắng lạ lùng.

Như vậy có một hệ trục tọa độ của không gian mà chẳng hề có một giá trị đáng kể nào để được ghi nhận. Khổ thơ này đã nhấn mạnh thêm cảm hứng dậm đặc về không gian của bài Tràng giang và cho thấy cảm quan rất tinh tế của Huy Cận. Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác giữa trời và đất là hữu hạn. Còn khi mặt trời đã nhuốm hoàng hôn thì ánh nắng đã hắt lên cao, bầu trời sẽ trở nên thăm thẳm không cùng, con mắt của chúng ta khó lòng mà nhìn tận cùng độ sâu hun hút ấy. vẻ đẹp rất hoang sơ, hùng vĩ chỉ làm cho nỗi buồn thêm dằn vặt và lan rộng. Cái bến cô liêu nào cũng rất dễ gợi thân phận của người ngắm cảnh.

Sang khổ thơ thứ ba dường như có sự đối lập với khổ thơ hai.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thần mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Tác giả không quan tâm tới cái mênh mông, cái hùng vĩ mà chú ý đến những cánh bèo dạt. Những cánh bèo dắt díu nhau lê thê, hàng nối hàng không dứt và chầm chậm trôi cũng ngơ ngác như con thuyền, cành củi khô ở khổ thơ đầu. Chính trong những hàng bèo ấy tạo ra sự chuyển động dọc song song gợi về một sự đơn điệu tẻ nhạt.

Nếu những khổ thơ trên con thuyền, cành củi là những cá thể buồn thì ở đây những tập hợp có quan hệ với nhau nhưng không làm giảm đi nỗi buồn. Nếu khổ thơ trên thân phận của thuyền của củi không định hướng thì những hàng bèo này cũng mặc cho nước cuốn trôi. Cá nhân hay cộng đồng cũng mang nỗi buồn như nhau. Trong Tràng giang cuộc đời và tất cả cũng đều là những thân phận thụ động.

Nếu trên kia mơ ước giả định một âm thanh thì giờ đây lại mơ ước giả định một hình ảnh. Nhà thơ rất mong có một chuyến đò ngang để cắt mạch dòng thời gian nghiệt ngã nhưng “Mênh mông không một chuyến đò ngang”.

Không có đò thì lại mơ ước có một cây cầu nối giữa đôi bờ thế nhưng cầu cũng không và một chút niềm thân mật của tình người cũng không có nốt. Hai từ “không” phủ định mạnh mẽ hơn rất nhiều so với câu hỏingơ ngác “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Điều này cho thấy nội tâm của tác giả tăng lên rất nhiều: càng lúc nỗi sầu ấy, nỗi khát khao tình người càng trở nên cồn cào vò xé và bức bách hơn. Câu thơ tiếp theo như một tiếng thở dài đành phải chấp nhận chỉ đứng bên này tràng giang để ngắm bên kia mà không hề gặp.được.

Đọc câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” ta như thấy xuất hiện hai màu, hai sự vật chứa đựng sắc thái lạc quan đó là bờ xanh và bãi vàng nhưng không thể đến được nơi ấy. Từ “lặng lẽ” đặt trong câu thơ bưng bức một nỗi đau gợi nên sự u buồn của nhà thơ và của Tràng giang. Như vậy cùng lúc Tràng giang mang tính chất biểu tượng - đây là con sông cuộc đời, là hoang mạc vắng tanh của cuộc đời. Nó là bờ khổ đau ở bên này mong tìm kiếm cái bờ hạnh phúc ở bên kia.

Dường như tất cả những cảm xúc, những ấn tượng, những suy nghĩ của Huy Cận đã dồn lại ở khổ thơ cuối cùng này. Dòng đầu miêu tả phía chân trời, những lớp mây trắng ngày càng dâng cao lên, nó phản chiếu ánh hoàng hôn trông giống như những dãy núi bạc. Đây là một hình ảnh rất đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến của nhà thơ đối với thiên nhiên, xứ sở.

Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chất chồng ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông giống như một giọt nắng từ trên trời cao rải xuống. Nhà thơ có cảm giác cả không gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. Xuân Diệu đãtừng bình “bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh / lệch cánh đi”. Đây là một cách nhìn rất lạ, chỉ có các nhà thơ mới quan niệm được như vậy. Không gian là hữu hình không khối lượng. Đám mây xốp cũng như vậy. Thế nhưng không gian làm nghiêng cánh chim, những đám mây cứ ùn lên tạo thành những hòn núi bạc. Hình như cái nặng của núi mới có khả năng đè lên cánh chim trời ấy.

Hai dòng thơ có cái thế tương phản: Một bên là lớp mây cao hùng vĩ và một bên là sự đơn độc nhỏ bé của cánh chim. Cái mênh mông của vũ trụ và cái nhỏ bé của một thân phận đã gợi nên sự vĩnh viễn của vũ trụ và cái hữu hạn nhỏ bé cô đơn của kiếp người. Như vậy, bất cứ ở khổ thơ nào, nhân vật tôi thường gởi mình vào trong hình ảnh để ám chỉ thân phận. Cánh chim nhỏ ở đây là trường hợp như vậy.

Cả bài thơ Tràng giang hoang vắng là vì người đọc chỉ thấy cảnh, thấy không gian. Nhưng đến hai dòng cuối, con người mới bắt đầu hiện hữu không phải với dáng vẻ bề ngoài mà là nội tâm ở bên trong.

Thể hiện rõ nhất cho cái nội tâm ấy phải kể đến câu thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. “Dợn dợn” đối ứng với “điệp điệp”, nó gợi lên cho chúng ta hình ảnh sóng nước tràng giang dường như chỉ còn dập dềnh một chỗ. Lí do là thời gian đã chuyển về buổi chiều muộn, tầm nhìn con người đã bị thu hẹp lại nhưng “dợn dợn” gợi một cảm giác về tâm trạng rất lạnh lẽo, rất ghê sợ. Cái “dợn dợn” ấy đang vời dần

xa, cái hoang lạnh đang chuyển dần về phía tít tắp của bóng tối. Con nước ở đây chính là những con sóng, những lớp sóng.

Kết hợp tất cả những từ ngữ ta sẽ thấy lớp sóng cứ gợn lên rồi trôi về phía mênh mông, càng xa càng lạnh lẽo ghê sợ.

Nếu ở câu đầu là sóng của tràng giang gợi lên nỗi buồn điệp điệp thì ở câu này cái tạo nên lớp sóng tạo nên nỗi buồn chính là lòng quê. Nói đúng hon những lớp sóng này không phải gợi lên từ tràng giang mà là nơi sâu thẳm nhất của lòng quê. Do đó những lớp sóng như đang vỗ về nơi xa xôi ấy lại chính là những lớp sóng ào ạt trào dâng trong lòng nhân vật trữ tình. Như vậy “Dợn dợn vời con nước” là hình ảnh cũng là tình cảm diễn tả nỗi buồn của lòng quê, nỗi buồn của con người đang sống giữa đất đai quê hương mình mà như “thiếu quê hương”, cứ như người xa xứ chạnh lòng nhớ quê nhà. Ý thơ rất dễ liên hệ đến tâm sự thẹn với ông Đào của Nguyễn Khuyến:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Ở ngay trên mảnh đất trong mùa thu nước Việt mà cụ Tam Nguyên như đang lạc vào một không gian đơn lẻ cô quạnh nào đó. Thế mới hay dù là thế hệ sau, dù có kiến thức Tây học như Huy Cận và các nhà văn mới nhưng cái mạch ngầm yêu nước và đau xót khi mất nước là mạch chảy trong tình cảm lí trí, tâm thức xưa nay của người Việt Nam.

Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đã gợi rõ nhất, sâu nhất nỗi buồn của Huy Cận. Câu thơ gợi nhớ ngay đến một ý thơ rất nổi tiếng của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Ở đây có sự gặp gỡ giữa cổ điển và hiện đại. Điển tích trong văn học là ẩn dụ gợi cho người đọc nhiều khám phá bí mật và thú vị. Câu thơ này kết thúc cả bài vì vậy nó có khả năng khơi gợi mênh mang cho độc giả. Tuy nhiên nếu chú ý hơn thì nỗi buồn của Huy Cận thực thể hơn, hiện đại hơn nỗi buồn đầy khí vị triết học của Thôi Hiệu. Huy Cận nghĩ đến cái nhà nơi chôn nhau cắt rốn - nơi có cha mẹ anh em xóm làng bầu bạn, nhớ nhà bằng một tấm lòng quê rất thật thà không khệnh khạng kiểu cách.

Với Thôi Hiệu, phải nhờ lớp khói trên sông thì nỗi buồn mới xuất hiện. Còn ở Huy Cận, tuy không hề có khói sóng nhưng người vẫn mượn nó trong tưởng tượng để hướng lòng về chốn quê nhà. Xưa muốn bộc lộ nôi buồn thì phải có ngoại cảnh. Nay các nhà Thơ mới không cần đến cái ngoại cảnh ấy cũng tê tái một nỗi buồn. Như nỗi buồn tiễn đưa của Thâm Tâm.

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng.

Trong “thế giới” nhà thơ không cần mượn tói khói sóng trên sông bởi vì lòng nhà thơ đã có sẵn nỗi nhớ nhà kín đáo thiết tha. Mặc dù phủ định khói hoàng hôn và chính nhờ cách đó nhà thơ đã đưa khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ để làm tăng nỗi buồn nhớ của nhà thơ, của người xa quê trước cảnh tràng giang.

C - KẾT LUẬN

Cảnh hoàng hôn tràng giang tuy có buồn, vắng nhưng là một bức tranh đẹp bởi được vẽ bằng một ngòi bút có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước. Từ đó mới có những hình ảnh thật quen thuộc gần gũi với người Việt Nam: một dòng sông mênh mông, một con thuyền xuôi dòng, một cành củi khô, một bến bờ xa vắng, một buổi chiều chợ tan... có cái gì như là hồn dân tộc, hồn đất nước quê hương thấm sâu trong từng cảnh vật giản dị nhưng gợi cảm ấy. Mặt khác Huy Cận gợi sâu nỗi buồn cô đơn để phủ nhận mà để biểu hiện niềm khát khao có được sự thân mật, sự hòa hợp gần gũi giữa những người với người trong tình người tình đất nước.

Đáp án: 

D. Nỗi buồn

10 tháng 1 2019

Nỗi lòng của nhà thơ

- Tình cảm yêu thương, quý trọng những nỗi vất vả, hi sinh của người vợ dành cho mình

- Tự trách mình là một người chồng nhưng lại “ăn lương vợ”. Trong câu “nuôi đủ năm con với một chồng” cho thấy người chồng không khác gì một đứa con dại, vẫn phải nuôi lớn, chăm nom.

- Lời chửi trong hai câu kết là Tú Xương đang tự chửi mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi “thói đời”, đã khiến bà Tú phải khổ. Từ đó cho thấy tình cảm sâu nặng của ông với người vợ của mình.

26 tháng 4 2019

a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hai đoạn thơ

b. Phân tích vẻ đẹp của hai đoạn thơ:

* Phân tích vẻ đẹp của đoạn thơ trong Tràng giang của Huy Cận.

- Vẻ đẹp nội dung: Cảnh sông Hồng và tâm trạng của thi nhân.

+ 3 câu đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ lên hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi lênh đênh, trôi dạt trên sông rộng lớn, mênh mong gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa...

+ Câu thơ 4 mang nét hiện đại với hình ảnh rất đời thường: cành củi khô trôi nổi gợi cảm nhận về những thân phận, kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.

→ Đằng sau bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của cái tôi bơ vơ, lạc lõng trước vũ trụ; là niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời.

- Vẻ đẹp nghệ thuật: Bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, tả cảnh ngụ tình, ẩn dụ, thể thơ, nhịp điệu... vừa mang tính cổ điển vừa hiện đại....

* Phân tích vẻ đẹp của đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

- Vẻ đẹp nội dung:

   + 2 câu đầu: bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió, mây, chia lìa đôi ngả; "dòng nước buồn thiu" gợi nỗi buồn hiu hắt.

   + 2 câu sau: tả dòng sông Hương trong đêm trăng lung linh, huyền ảo, vừa thực vừa mộng.

→ Đằng sau cảnh vật là tâm trạng vừa đau đớn, khắc khoải vừa khao khát cháy bỏng của thi nhân.

- Vẻ đẹp nghệ thuật: Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo, có tính tượng trưng, giàu sức gợi. Phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm; dùng cấu trúc đối lập, phép nhân hóa, câu hỏi tu từ...

* Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn thơ.

- Sự tương đồng:2 đoạn thơ tiêu biểu cho Thơ mới, đều là những bức tranh tâm cảnh. Hình ảnh ngôn ngữ giản dị, gần gũi; mượn cảnh sông, nước, con thuyền ...để gợi sự chia lìa, cô đơn. Tâm trạng thi nhân: buồn, cô đơn, bế tắc trước cuộc sống...nhưng thiết tha yêu đời, yêu người.

- Sự khác biệt:

   + Tràng giang của Huy Cận sáng tác trong hoàn cảnh: cảm xúc trước sông Hồng mênh mông, ngậm ngùi về thân phận nhỏ bé của mình trước trời đất vô cùng.Trong thời gian: buổi chiều.Và vẻ đẹp cái tôi trữ tình:: nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà tha thiết.Thơ Huy cận mang đậm yếu tố Đường thi qua ngôn ngữ, hình ảnh)

   + Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ 1 mối tình, khi nhà thơ mắc bệnh sắp lìa cõi đời.Trong thời gian, không gian nghệ thuật: từ chiều đến đêm trăng, sông Hương.Và vẻ đẹp cái tôi trữ tình:đoạn thơ bộc lộ thế giới nội tâm đầy uẩn khúc, khát khao mãnh liệt tình yêu nhưng vô vọng, mơ tưởng tình người, tình đời; nỗi niềm lo âu cho hạnh phúc, khát khao được sống...Thơ Hàn Mặc Tử mang dấ ấn của thơ tượng trưng, siêu thực qua ngôn ngữ, hình ảnh).

- Lí giải: Hai đoạn thơ viết về hai không gian và hai thời điểm khác nhau. Hai tác giả có hai phong cách khác nhau.

Tham khảo: 

Nói về các nhà Thơ Mới, Hoài Thanh đã từng nhận xét: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên.. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Nếu Xuân Diệu gieo lên vần thơ của mình sự khắc khoải về thời gian thì Huy Cận lại đem đến một không gian vô cùng rộng lớn để tạo nên những nét riêng trong thơ của mình. Cũng như Đỗ Lai Thúy trong con mắt thơ đã từng nhận định:
"Xuân Diệu, nỗi ám ảnh thời gian."
"Huy Cận, sự khắc khoải không gian."
Có một nhà thơ luôn trăn trở, khắc khoải về thời gian. Đúng không ai hết chính là Xuân Diệu. Được biết đến là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, tức là có ý thức sâu sắc khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng nghệ thuật thơ ca, nhưng khác với nhiều nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu không đem cái tôi của mình đối lập với đời và tìm cách thoát li cuộc sống này; trái lại, ông muốn khẳng định nó trong quan hệ gắn bó với đời, hiểu theo nghĩa trần thế nhất: Là con người, là trời đất, là hoa lá cỏ cây ở quanh ta đây. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết. Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam. "Vội vàng" được sáng tác trước cách mạng vào năm 1938 in trong tập "Thơ thơ" - thi phẩm đầu tay và ngay lập tức vinh danh Xuân Diệu như một đại diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới. Không chỉ thời gian vô tận mà không gian cũng mênh mông, Huy Cận cũng được biết đến với vai trò là một nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng hiện đại Việt Nam và đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới. Với tình yêu thiên nhiên, đất nước thầm kín, sâu sắc cùng với sự say mê sống, sáng tạo, Huy Cận đã sáng tác rất nhiều bài thơ đặc sắc, hàm súc giàu suy tưởng triết lí. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám ở mỗi giai đoạn thì phong cách cũng khác nhau khi thì quạnh hiu, da diết khi thì tươi vui, mới mẻ. "Tràng Giang" được viết vào mùa thu năm 1939, được rút ra trong tập thơ "Lửa thiêng" năm 1940. Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, bạt ngàn trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Nỗi buồn ấy xuất phát từ một buổi chiều thu, khi ông đắm mình ngắm nhìn dòng sông Hồng trên bến Chèm. Khung cảnh bốn bề sông nước mênh mông, vắng lặng đã khơi gợi ở hồn ông tứ thơ "Tràng Giang".
"Thời gian" được hiểu là một hình thức tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại và tương lai. Đối với các nhà vật lý thời gian được đo bằng đồng hồ. Các nhà toán học lại quan niệm thời gian được coi là một chiều liên tục, có thể chia thành nhiều thời khắc. Để đưa ra một khái niệm chính xác lớn về thời gian là một thách thức lớn với mọi lĩnh vực vì nó rất khó hình dung do mỗi cá thể sẽ có cái nhìn, những cảm thức khác nhau về thời gian. Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật đặc biệt là trong thơ ca đã trở nên rất quen thuộc tiêu biểu là Xuân Diệu, Đỗ Lai Thúy đã từng nhận định: "Xuân Diệu, nỗi ám ảnh thời gian" đã cho thấy được quan niệm của thi sĩ về thời gian là tuyến tính, là một đi không trở lại, ông thường lấy tuổi trẻ để làm thước đo cho thời gian để từ ấy những tiếc nuối lo lắng về sự thời phai cứ nhen lên không sao dập tắt được. Nguyên nhân nỗi ám ảnh thời gian về thời gian của Xuân Diệu đó là ông đã nhận thức được rõ nét những đớn đau, khắc nghiệt giá trị của thời gian, của thời khắc tuổi trẻ. Khác với những nhà thơ Trung đại, Xuân Diệu nhìn nhận thời gian theo chiều hướng một đi không trở lại, vũ trụ là một khách thể độc lập với con người, thời gian sẽ chỉ đến một lần, nó sẽ chẳng thể vì một ai mà đứng lại, cuộc đời có thể là vô hạn vĩnh hằng nhưng túi thời gian nhỏ bé của con người thì luôn có giới hạn. Chính những nỗi niềm ấy đã ám ảnh Xuân Diệu trong từng tác phẩm của mình. So sánh với sự vô hạn của thời gian là sự vô tận của không gian. Không gian là một mở rộng ba chiều không biên giới trong đó các vật thể và sự kiện có vị trí và hướng tương đối với nhau. Không gian cũng được xét theo nhiều khía cạnh, nhiều chiều ở mỗi khía cạnh lại có một định nghĩa khác nhau về không gian, không gian trong nghệ thuật đặc biệt là trong thơ ca cũng được nhắc đến rất nhiều tiêu biểu là Huy Cận, Đỗ Lai Thúy cũng đã từng nhận định: "Huy Cận, sự khắc khoải không gian." Không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là cả một thế giới bên trong sâu lắng, bàng bạc mông mênh cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ Huy Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc của con người trước vũ trụ, là cái hữu hạn đời người trước vô tận của đất trời..

Từ phát hiện mới: Cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất – Khao khát tắt nắng, buộc gió. Bước vào trang thơ đầu tiên độc giả không khỏi giật mình trước những lời tuyên bố bằng những câu thơ ngũ ngôn lạ lùng được thể hiện qua bốn câu thơ đầu:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi!"
Bài thơ mở đầu bằng giọng điệu dồn dập, hối hả, Đã lột tả cái tôi cá nhân mãnh liệt cùng mong ước táo bạo là tắt nắng và buộc gió, những khát khao "phi lí" ấy lại tạo nên một cái tôi cực kỳ ấn tượng và lôi cuốn. "Nắng", "gió" đều là vật sản sinh ra từ vũ trụ rộng lớn và cơ hồ sức mạnh con người không thể chống đối lại thế mà Xuân Diệu lại muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời vì khát vọng lưu giữ khoảnh khắc hiện tại của cuộc đời mà nhà thơ muốn đoạt cả quyền tạo hóa. Tiếp đó, nhà thơ lại hóa thân thành người họa sĩ, vẽ ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân vô cùng sinh động, tràn đầy màu sắc, ánh sáng, hương thơm lẫn âm thanh. Tất cả đang trong độ tươi mới, đẹp đẽ nhất, căng tràn nhựa sống. Nhà thơ căng mở các giác quan để cảm nhận mọi hương vị, thanh sắc của cuộc đời qua lăng kính tinh tế của mình. Và, ông đã bày ra một bữa tiệc thịnh soạn với những vẻ đẹp của mùa xuân trần thế, mùa xuân của tuổi trẻ và tình yêu.
Xuân Diệu không chỉ "đốt cảnh bồng lai để đưa ai nấy về hạ giới" mà đồng thời còn lột tả tình yêu tha thiết, mãnh liệt của mình đối với những tháng ngày hiện tại của cuộc đời thông qua phần đầu bài thơ. Kết thúc niềm vui sướng trước vẻ đẹp đất trời, tác giả đã ngăn cách mạch cảm xúc bằng hai câu thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân."
Xuân Diệu đã tạo ra một câu thơ thật đặc biệt khi trên cùng một dòng thơ mà có hai câu đơn bị ngăn cách bởi một dấu chấm. Phải chăng đây là cách thi nhân muốn bộc bạch hai luồng cảm xúc trái ngược nhau đang đan xen. Đang trong niềm vui, được tận hưởng cuộc đời những dấu chấm giữa dòng xuất hiện như một sự khựng lại và giật mình của thi nhân trước một niềm vui không trọn vẹn. Cuộc sống đang đẹp phơi phới, căng mọng, nhưng nó cũng chẳng kéo dài như vậy được mãi. Dấu chấm đó dường như đã chuyển sung sướng, yêu đời trở nên tiếc nuối và vội vàng. Hơn thế, nó đã chuyển mạch cảm xúc trở thành mạch luân lí cùng những quan niệm, triết lí về thời gian ở mười sáu câu thơ tiếp:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất."
Trước Xuân Diệu, ta từng thấy một nữ thi sĩ cũng có quan niệm về thời gian rất mới mẻ đó chính là Hồ Xuân Hương. Trong bài thơ "Tự tình", Bà Chúa thơ Nôm từng có câu:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại"
Mùa xuân này đi qua thì mùa xuân khác lại tới bởi cuộc sống được ví như một vòng tuần hoàn. Lẽ ra con người ta phải cảm thấy vui nhưng nữ thi sĩ lại cảm thấy chán chường. Bởi lẽ, tuổi xuân của con người không giống như mùa xuân tuần hoàn của đất trời. Ở đây, cả hai thi sĩ đã cùng chung một quan điểm về thời gian. Thời gian không tuần hoàn, không lặp đi lặp lại như quan niệm cũ "Xuân qua trăm hoa rụng, xuân tới trăm hoa tươi". Với Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính, là một đi không trở lại. Cách ngắt nhịp 3-2-3 kết hợp với việc sử dụng điệp cấu trúc và kiểu câu định nghĩa "nghĩa là" đã gợi lên cảm giác đều đặn như nhịp bước đi lạnh lùng, vô tình của thời gian. Đó chính là quy luật không cách nào thay đổi. Từ "nghĩa là" lặp đi lặp lại ba lần nhấn mạnh khẳng định thời gian là hữu hạn. Ngoài ra, với các cặp từ đối lập như "tới" – "qua", "non"... "
Già" càng khắc sâu quy luật trường tồn về sự vận hành của thiên nhiên, của thời gian. Cũng chính vì sự quyến rũ của "mật đời" cùng những khát khao "ôm" cuộc sống ấy vào lòng tận hưởng một cách trọn vẹn đã gây nên những băn khoăn và trăn trở về thời gian cho nhà thơ. Xuân của đất trời một đi không trở lại, "xuân" của tác giả cũng vậy. Cái "xuân" ấy là những tháng năm ngắn ngủi của tuổi trẻ với sức sống và niềm yêu mãnh liệt, một khi đã qua làm sao có thể lấy lại nguyên vẹn như vậy được. Triết lí nhân sinh ấy khiến tác giả rơi vào trong những nỗi niềm trăn trở, băn khoăn bởi suy nghĩ lấy sinh mệnh của cá nhân, của tuổi trẻ – khoảng thời gian ngắn ngủi nhất đời người làm thước đo thời gian. Điều này càng đẩy sâu tâm trạng của thi nhân vào những nỗi buồn, nuối tiếc, dằn vặt. Dòng thời gian tuyến tính vô tình đã tác động tiêu cực đến con người. Xuân hết, mỗi con người, trong đó có "tôi" sẽ phải mất đi một phần đời đáng giá của mình. Thế mới thấy thời gian thật lạnh lùng đối với thi nhân- con người ham sống đến cuồng nhiệt.
"Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời"
Cuộc đời của mỗi người rất đáng quý, nhưng đáng quý nhất là những giây phút tuổi trẻ ngắn ngủi. Đó là lúc mà con người ta tràn trề nhựa sống nhất cùng với những khát khao, đam mê cháy bỏng không ngừng. Lại một lần nữa sử dụng những cặp từ đối lập "rộng - chật"; "xuân vẫn tuần hoàn"; "tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"; "còn trời đất"... "
Chẳng còn tôi mãi". Ta thấy dường như tạo hóa đã đối xử quá hẹp hòi với thi nhân còn khao khát của thi nhân lại trở thành một món quà vô cùng xa xỉ. Những dòng thơ như những lời hờn trách, nhưng cũng là lời nuối tiếc bởi tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Cuộc đời này không đối đãi ưu ái cho riêng ai, chúng ta đều chỉ có một thời trẻ vỏn vẹn, ngắn ngủi. Đất trời vẫn còn mãi, nhưng thanh xuân rồi sẽ qua đi nhanh chóng, không chờ một ai. Để rồi lại đẩy nhân vật trữ tình vào cảm giác bâng khuâng, tuyệt vọng. Tất cả rồi cũng sẽ trở thành hoài niệm, cũng chỉ là câu nói đã từng.
Nỗi niềm tâm trạng của Xuân Diệu đã lan tỏa sang cả vạn vật:
"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt..
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?"
Lại một lần nữa, tháng năm vốn vô hình, trừu tượng, lại được chuyển đổi cảm giác trở nên có mùi, có vị. Nếu tháng giêng ở phần đầu bài thơ có vị "ngon như cặp môi gần" thì bây giờ lại rớm vị của sự chia phôi. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" quả thật không sai. Cả thiên nhiên vũ trụ đều nhuốm màu của sự chia li, mất mát. Mỗi sự vật đang từng giây từng phút ngậm ngùi tiễn biệt phần đời còn lại của mình. Nỗi buồn, sự nuối tiếc bao trùm khắp không gian bởi những cuộc chia li có lẽ là mãi mãi. Từng câu hỏi thốt lên chua xót đến nghẹn lời. Những quy luật của cuộc đời vốn là như thế, bông hoa đẹp rồi cũng phải tàn, gió vẫn phải bay, chim cũng không thể cứ ca mãi. Mọi thứ đều có giây phút huy hoàng nhất của nó, tuy nhiên chẳng bao giờ thời huy hoàng kéo dài mãi. Chẳng ai muốn những cuộc chia phôi, nhưng tạo hóa không bao giờ có thể thay đổi quy luật của nó. Mỗi người cũng chỉ có một phần đời, một tuổi trẻ, một thanh xuân. Sự nuối tiếc như được dồn nén đến tột cùng khi Xuân Diệu kết thúc đoạn thơ bằng câu:
"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.."
Tiếng kêu tuyệt vọng, đau đớn thốt ra trong vô vàng cảm xúc hỗn độn. Đó là sự thức tỉnh sâu sắc của cái tôi về sự tồn tại của mỗi cá nhân trên cuộc đời giữa dòng thời gian chỉ chảy xuôi không bao giờ chảy ngược. Đồng thời cũng như một lời cảnh tỉnh hãy trân trọng từng phút giây tươi đẹp của cuộc đời mình khi còn có thể, đặc biệt là những tháng năm tuổi trẻ quý báu. Câu thơ không chỉ kết thúc đoạn thơ bằng sự nuối tiếc, dằn vặt mà còn là bước đệm, mở ra mạch cảm xúc mới cho đoạn thơ cuối cùng. Vì càng nuối tiếc, hoài niệm lại càng vội vàng, cuống quýt với những khát khao mãnh liệt được sống đến cháy bỏng.
Đoạn thơ đã cho thấy sâu sắc nỗi ám ảnh ấy. Chính nỗi ám ảnh ấy càng khiến ông buồn sầu, bâng khuâng, nuối tiếc hơn vì sự trôi chảy của nó. Qua quan niệm về thời gian, Xuân Diệu đã làm nổi bật về cái tôi cá nhân của chính mình cùng suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ và đầy triết lí. Giọng thơ lúc thì nhẹ nhàng, tha thiết, lúc thì dồn dập như thôi thúc, tạo âm điệu càng tạo nên sức hút, cuốn độc giả vào luồng những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, con người và tuổi trẻ. Có thể thấy ở nhà thơ, dù đắm say trong giấc mộng đẹp thời tươi của tuổi trẻ nhưng vẫn có cái nhìn thực tế về thời gian, về những quy luật nhân sinh trong đời sống. Để rồi từ yêu đời, tha thiết, rạo rực lại cảm thấy băn khoăn. Nhưng như thế lại càng trỗi dậy lời giục giã, khát vọng ham sống đến cuồng nhiệt, vồ vập ở những vần thơ sau. Vội vàng là bài thơ trữ tình thấm đẫm những giá trị nhân văn qua lăng kính mới mẻ của Xuân Diệu.
Trong khi bạn thân của Huy Cận là Xuân Diệu chịu nỗi dằn vặt về thời gian thì với chính Huy Cận lại bị ám ảnh bởi không gian. Mở đầu cho nỗi ám ảnh không gian ấy là một phong cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la, mênh mang, heo hút của sông Hồng:
"Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp"
Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi: Dòng sông con thuyền gợn sóng.. Nhưng cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng khuâng. Hai chữ "điệp điệp" mang tới một nỗi buồn không mãnh liệt, không mạnh mẽ, u sầu mà nó cứ liên tục, mãi không ngừng. Sóng của dòng sông của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lòng của thi nhân với từng nỗi buồn cứ thế trùng điệp ở trong lòng. Nguyễn Du từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Có lẽ vì lòng người buồn mà tâm cảnh cũng nhuốm lên ngoại cảnh. Nhìn đâu thi nhân cũng chỉ thấy cảnh vật rời rạc chia ly u sầu cứ thế mà hiện lên trong từng câu chữ. Xưa nay thuyền – nước vốn là hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như không ăn nhập vào nhau "Con thuyền cũng không buồn lái để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau cứ âm thầm mà chảy" song song "vờ không quen biết nhau trong đời". Rồi bất ngờ thay trên dòng chảy mênh mông ấy thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng: "Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội cũ". "Cành củi" thôi đã gợi lên sự nhỏ bé đơn độc lại còn "củi khô" nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi bơ vơ vô định giữa dòng chảy của cuộc đời giữa cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền?
Vẫn tiếp nối cái u sầu buồn bã của khổ một khổ thơ tiếp theo như đẩy đưa con người lên đến đỉnh sầu:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
Sông dài trời rộng bến cô liêu."
Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm: "Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò". Và thần thơ cổ điển ấy đã nhuốm vào Tràng giang mang cái buồn thương hiu hắt. Trên dòng Tràng giang mênh mông mọc lên "lơ thơ cồn nhỏ". Từ láy "lơ thơ" diễn tả sự rời rạc thưa thớt của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng cô tịch tiêu điều xơ xác. Hai chữ "đìu hiu" như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một tiếng thở dài man mác. Trong tiếng gió buổi chiều là âm thanh của cuộc sống con người nhưng nghe mơ hồ quá "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Đâu là ở đâu? Không xác định. Đó là thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo làn gió lan xa mãi. Nó chỉ thoáng qua trong gió rồi tắt lịm giữa bóng chiều đang xuống càng làm cho cảnh chiều hư vô càng gợi thêm sự vắng vẻ quạnh hiu. Nhà thơ như đang bị vây giữa không gian ba chiều rộng lớn "Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu". Vũ trụ được đẩy lên cao bởi khi nắng chiều xuống bầu trời như được nâng lên hẳn làm nên độ cao "sâu chót vót". Chữ "sâu" rất ấn tượng. Nếu dùng từ "cao" thì chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời còn chữ "sâu" vừa tả được độ cao vừa gợi được cảm giác của con người trước chiều cao ấy. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng thiên địa. Con người trong phút ấy trở nên nhỏ bé cô đơn hơn bao giờ hết. Nhà thơ gọi quãng mình đứng là "bến cô liêu" hay chính tâm hồn thi nhân đang lẻ loi và hoang vắng. Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu đã đồng điệu khi gọi hồn mình là "bến cô liêu" hay "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".
Nhưng chưa dừng lại ở đó cái tôi cô đơn của thi nhân còn đi sâu hơn nữa vào ngọn nguồn của nỗi buồn thương:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh cánh bèo trong "bèo dạt về đâu" mang thân phận con người: Lạc loài trôi nổi. Đó chính là hình ảnh của số phận con người "hàng nối hàng" không biết đi về đâu trong xã hội cũ khi chưa có cách mạng về. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi một sự kết nối. Phóng tầm mắt ra sông rộng thấy "Mênh mông không một chuyến đò ngang"; "Không cầu gợi chút niềm thân mật" để rồi thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Hai từ "không" hai lần phủ định "không đò" "không cầu" trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình vô cảm. Nhìn đâu cũng chỉ thấy "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Khổ thơ cuối cùng khép lại mang niềm tâm sự sâu kín của thi nhân về tình yêu quê hương đất nước:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: Bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Nỗi buồn cô đơn lẻ loi trước cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ được thể hiện trong các khổ thơ trước thì khổ cuối đã khép lại những tâm tư thầm kín của tác giả, nỗi niềm yêu quê hương. Một không gian quen thuộc đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ: Một rặng núi xa những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. "Có thể nói cảnh vật hiện lên ở khổ cuối là cảnh vật cô đọng nhất nhưng cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất. Tầng tầng lớp lớp những áng mây chồng chất lên nhau như chất chứa cả nỗi niềm ẩn khuất của nhà thơ. Động từ" đùn "diễn tả trạng thái hoạt động tràn đầy sức sống ánh sáng chiếu vào lấp lánh như màu bạc. Cả bài thơ chỉ có mỗi dòng này le lói sự sống tươi mới rực rỡ". Cảnh thật hùng vĩ tráng lệ nhưng đối lập với cái hùng vĩ ấy là hình ảnh cánh chim nhỏ bé đơn côi đang "nghiêng cánh nhỏ". Bóng chiều buông xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ lạc lõng giữa bầu trời rộng thênh thang. Cánh chim như chở nặng nỗi niềm thi nhân hay chính là hình bóng thi nhân đang lạc lõng bơ vơ giữa vòng xoáy cuộc đời? Không nhìn vào không gian nữa nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Thi sĩ gọi tâm hồn mình là "lòng quê". "Lòng quê dợn dợn vời con nước" "dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận chưa từng thấy trước đó. Cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng cô đơn của "lòng quê" đang "dợn" lên trong tâm hồn thi nhân làm cho hồn người nôn nao không yên. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương của chính mình nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ Mới lúc bây giờ.
Câu thơ cuối cùng khép lại "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Nhà thơ đã mượn ý thơ Thôi Hiệu để nói lên nỗi lòng của mình. Cách đó mười thế kỷ Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà lòng nhớ quê hương da diết khôn nguôi:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai"
Huy Cận không nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà thơ. Từ đó bài thơ mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi nỗi buồn về đất nước. Phải chăng đó chính là sự đồng điệu của hai tâm hồn thi sĩ cách nhau mười thế kỷ?
"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình." Để làm nên một tác phẩm mang chất riêng của mình đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự sáng tạo. Nếu ở Xuân Diệu thể hiện quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, một cái tôi khao khát giao cảm, tận hưởng với cuộc đời. Thì đến Huy Cận ông đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bao la, hùng vĩ để từ đó nói lên được nỗi lòng của thi nhân. Đó là nỗi buồn cá nhân, nỗi buồn thế hệ, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Cùng với đó hai thi sĩ đã vận dụng hàng loạt những biện pháp nghệ thuật để thể hiện tính sáng tạo cho bài làm của mình như trong "Vội Vàng" Xuân Diệu đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch luân lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Còn ở "Tràng Giang" Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh kết hợp các biện pháp tu từ, thủ pháp: Đối, điệp từ, láy.. Mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Shelly đã từng nhận định: "Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.". Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông mặc dù hiểu được sự hữu hạn của cuộc đời nhưng cả Xuân Diệu và Huy Cận đều thể hiện sự khắc khoải, nuối tiếc. Nếu như ở "Vội Vàng" đã mang tấm lòng trần gian đến một tình yêu căng tràn nhựa sống, say đắm cảnh trời, say đắm thiên nhiên, sống vội vàng, cuống quýt để không phí hoài những ngày xanh, tuổi trẻ. Thì đến "Tràng Giang" thì khác với một âm hưởng nhẹ nhàng, lạnh lẽo. Một nỗi niềm chan chứa những ưu tư của tác giả về tình yêu quê hương, đất nước, con người của chính mình ông. Một cảm xúc rất chân thật trước một bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận.

11 tháng 8 2021

Tham khảo (Lazi):

Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương đã gợi ra cho ta những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ đâu được quyền được hưởng hạnh phúc của riêng mình, đâu được coi trọng trong xa hội nam quyền ấy. Tất cả những gì ta nhìn thấy trong thân phận họ chỉ là những bất hạnh khôn nguôi. Thân phận người phụ nữ là thân phận bị phụ thuộc, bị phụ thuộc vào người khác mà không thể cất lên tiếng nói đòi quyền sốn,g quyền hạnh phúc cho chính mình. Số phận khổ đau, cơ cực ấy làm ta vô cùng thương xót. Không phải ngẫu nhiên ca dao xưa luôn luôn mở đầu lời ca nói về thân phận người phụ nữ bằng cụm thân em. Dẫn em có muôn phần xinh đẹp thì cũng chỉ là tấm thân nhỏ bé trôi dạt trong những đau thương. 

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
31 tháng 1

- Văn bản giúp em hiểu ra rằng nỗi đau của những người bị khiếm khuyết trên cơ thể phải gánh chịu là rất lớn và họ phải chịu đựng, chấp nhận nó bằng nghị lực phi thường.

- Mỗi người chúng ta cần cảm thông, chia sẻ và cổ vũ họ trong mọi việc bởi họ là những người đã gánh chịu nhiều nỗi đau và họ rất dễ bị tổn thương. Nhưng sự cảm thông, chia sẻ của chúng ta cũng phải thực sự khéo léo bởi đôi khi nó có thể bị hiểu nhầm thành sự thương hại. Và một điều tuyệt đối rằng chúng ta không được phép kì thị họ.

2 tháng 7 2019

1. Mở Bài :

Trong phần mở đề, cần khẳng định Huy Cận (1919-2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới” (1932-1945), bài thơ Tràng giang trong tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận. Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

2. Thân Bài :

- Khổ 1

   + Ba câu đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ lên hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, lênh đênh, trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.

   + Câu thứ 4 mang nét hiện đại với hình ảnh rất đời thường: cành củi khô trôi nổi gợi lên cảm nhận về thân phận của những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.

- Khổ 2: Bức tranh tràng giang được hoàn chỉnh thêm với những chi tiết mới: cồn nhỏ, gió đìu hiu, cây cối lơ thơ, chợ chiều đã vãn, làng xa, trời sâu chót vót, bến cô liêu... nhưng không làm cho cảnh vật sống động hơn mà càng chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh.

- Nghệ thuật:

   + Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Sự xuất hiện của những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa và cảm xúc buồn mang dấu ấn cái tôi cá nhân,...).

   + Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.

3. Kết bài:

“Tràng giang” của Huy Cận đẹp vì những hình ảnh, những từ ngữ đẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương.

- Tràng giang của Huy Cận thực sự là một bài thơ của thơ hiện đại, mang cảm nhận về nỗi buồn và nỗi cô đơn của con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thế kỉ trước.