K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   Sưu tầm một số bài ca dao mượn hình ảnh con cò diễn tả cuộc đời, thân phận :

   - Cái cò lặn lội bờ sông

   Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

   Nàng về nuôi cái cùng con

   Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng

   - Con cò mà đi ăn đêm

   Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…

Câu 2 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Cách diễn tả cuộc đời lận đận, vất vả của con cò :

       + Từ láy “lận đận” và thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” tăng sức biểu cảm.

       + Đối lập : nước non >< một mình, thân cò >< thác ghềnh, lên >< xuống, bể kia đầy >< ao kia cạn. Chúng tô đậm nỗi vất vả, đơn độc thân cò.

       + Câu hỏi tu từ: Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? - lời than, câu hỏi không lời đáp.

   - Ngoài nội dung than thân, bài ca này còn là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, là nỗi bất bình phản kháng của kẻ bị áp bức.

Advertisement: 2:06

Close Player

Câu 3 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - “Thương thay” : tiếng than biểu hiện sự đồng cảm, thương xót.

   - Ý nghĩa của sự lặp lại : cuộc đời con vật nhỏ bé nào cũng đáng thương, tô đậm nỗi thương cảm, xót xa, đặc biệt kết nối và mở ra những nỗi thương khác.

Câu 4 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Thương con tằm : thân phận bị bòn rút sức lực.

   - Thương lũ kiến li ti : những người lao động làm việc suốt đời mà vẫn túng thiếu.

   - Thương hạc : cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, không có tương lai.

   - Thương con cuốc : thấp cổ bé họng, không được thương xót.

   ⇒ những nỗi thương thân phận bé nhỏ, bị ức hiếp trong xã hội.

Câu 5* (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1): Sưu tầm :

    -   Thân em như hạt mưa sa

   Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

    -   Thân em như hạt mưa rào

   Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

    -   Thân em như miếng cau khô

   Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày

    -   Thân em như giếng giữa đàng

   Người khôn rửa mặt, người phàn rửa chân.

   - Các bài ca dao trên nói về thân phận bấp bênh, vấp vả của người phụ nữ xưa.

   - Nghệ thuật : Cấu trúc “Thân em…” so sánh với những hình ảnh trôi nổi, vô định gợi lên hình ảnh, thân phận người phụ nữ.

Câu 6 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   Hình ảnh so sánh “trái bần trôi” – loại quả vừa chua vừa chát đã bị rụng lại bị “gió dập sóng dồi”. Qua đây có thể thấy cuộc đời người phụ nữ thời phong kiến nghèo hèn lắm khổ đau, lại bị vùi dập trôi nổi.

19 tháng 9 2016

Ấn vào phần hướng dẫn soạn bài em nhé !

Trong hoc24 có cả phần jup hs soạn bài nữa

19 tháng 9 2016

Mấy bữa trước em vào rồi, nhưng dài lắm, chép mỏi tay

14 tháng 6 2017

- Kiểu văn bản: ca dao dân ca trữ tình

23 tháng 9 2021

PTBĐ của bài những câu hát than thân cũng như là tổng quát bài ca dao là BIỂU CẢM.

23 tháng 9 2021

bạn học bài này chx

 

8 tháng 1 2022

Tham Khảo (dựa vào các ý kiến cho sẵn để hoàn thành bài văn theo suy nghĩ của mình nhé !!! )

+ Câu thứ hai: Thương thay thân phận con tằm... có người nào nghe?

- Là một loạt hình ảnh so sánh giữa thân phận thấp kém của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến, con chim...

- Từ cảm thán Thương thay lặp lại ở đầu câu tạo âm hưởng ngậm ngùi, chua xót, mang nỗi sầu thân phận hẩm hiu, bất hạnh.

- Điệp ngữ: kiếm ăn được mấy và từ phải nhấn mạnh ý cuộc sống của người nghèo quá lầm than, cơ cực.

- Hình ảnh chim bay mỏi cánh, cuốc kêu ra máu và các câu hỏi tu từ biết ngày nào thôi? Có người nào nghe? Đặc tả thân phận lênh đênh, đầy tủi hờn, oan ức giữa xã hội phong kiến bất công, ngang trái...

I/ Học tác giả, tác phẩm, ý nghĩa, đặc sắc nghệ thuật:

1/ Phò giá về kinh:

a/ Tác giả:

Trần Quang Khải (1241 – 1294) là con trai thứ 3 của vua Trần Thái Tông
b/ Tác phẩm:

Thể thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, cách gieo vần như thể thư Thất ngôn tứ tuyệt
Sáng tác lúc ông đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử
c/ Ý nghĩa:

Thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần
...............................................................................................
d/ Đặc sắc, nghệ thuật:

Hình thức diễn dạt cô đọng, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng
Đảo ngữ về các địa danh (Chương Dương → Hàm Tử)
..........................................................................................................
2/ Bạn đến chơi nhà:

a/ Tác giả:

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909): lúc nhỏ tên là Thắng. Quê ở huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
b/ Tác phẩm:

Sáng tác sau giai đoạn ông cáo quan về quê
Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật
c/ Ý nghĩa:

Bài thơ thể hiện quan niệm về tình bạn, quan niệm đó vẫn còn ý nghĩa, giá trị lớn trong cuộc sống của con người hôm nay
d/ Đặc sắc, nghệ thuật:

Sáng tạo nên tình huống khó xử khi bạn đến chơi nhà, và cuối cùng òa ra niềm vui .....................
Lập ý bất ngờ, vận dụng ngôn ngữ, thể loại điêu luyện
3/ Qua Đèo Ngang:

a/ Tác giả:

Bà Huyện Thanh Quan tên Thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thể kỉ XIX (? - ?)
Quê ở làng Nghi Tàm, quận Tây Hồ, Hà Nội
b/ Tác phẩm:

Sáng tác theo thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật
Đèo Ngang là địa danh nối liền hai tỉnh Quảng Bình & Hà Tĩnh
c/ Ý nghĩa:

Thể hiện tâm trạng cô đơn, thầm lặng, nỗi niềm hoài cổ của Nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang
d/ Đặc sắc, nghệ thuật:

Sử dụng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật điêu luyện
Sử dụng bút pháp nghệ thuật: Tả cảnh ngụ tình Sáng tạo trong việc sử dụng từ láy, từ động âm khác nghĩa gợi hình, gợi cảm
Sử dụng nghệ thuật đối hiệu quả trong việc tả cảnh, tả tình
4/ Bánh trôi nước:

a/ Tác giả:

Hồ Xuân Hương (? - ?) →Bà Chúa Thơ Nôm
Nhiều sách nói bà là con của Hồ Phi Diễn (1704 - ?) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà từng sống ở phường Khán Xuân gần Tây Hồ, Hà Nội
b/ Tác phẩm:

Sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật → bằng chữ Nôm
c/ Ý nghĩa:

Thể hiện cảm hứng nhân đạo trong văn học viết Việt Nam dưới thời phong kiến
Ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, đồng thời thể hiện lòng tỏ sâu sắc đối với thân phận chìm nổi của họ
d/ Đặc sắc, nghệ thuật:

Vận dụng điêu luyện những quy tắc của thơ Đường luật
Sử dụng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày với Thành ngữ, Mô típ dân gian
Sáng tạo trong việc xây dựng nhiều tầng ý nghĩa
5/ Tiếng gà trưa:

a/ Tác giả:

Xuân Quỳnh (1942 – 1988) quê ở làng La Khê, ven thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Là nhà thơ nữ xuất sắc trong nền thơ hiện đại Việt Nam
b/ Tác phẩm:

Được viết trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968) của Xuân Quỳnh
Thuộc thể thơ 5 chữ
c/ Ý nghĩa:

Những kỉ niệm về người bà tràn ngập yêu thương làm cho người chiến sĩ thêm vững bước trên đường ra trận
d/ Đắc sắc nghệ thuật:

Sử dụng hiệu quả điệp từ Tiếng gà trưa có tác dụng nổi mạnh cảm xúc, gợi nhắc những kỉ niệm lần lượt hiện về
Thể thơ 5 chữ phù hợp với việc vừa kể chuyện, vừa bộc lộ tâm tình
6/ Sông núi nước nam:

a/ Tác giả:

Chưa rõ tác giả bài thơ là ai
Sau này có nhiều sách ghi là Lý Thường Kiệt
b/ Tác phẩm:

Sáng tác theo thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
Là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta
c/ Ý nghĩa:

Bài thơ thể hiện niềm tin vào sức manh chính nghĩa của dân tộc ta
Bài thơ có thể xem như bản tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên của nước ta
d/ Đặc sắc nghệ thuật:

Sử dụng thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt ngắn gon, xúc tích để tuyên bố nền độc lập của đất nước
Dồn nén cảm xúc trong hình thức nghiêng về nghị luận, bày tỏ ý kiến
Lựa chọn ngôn ngữ góp phần thể hiện giọng thơ dõng dạc
Hùng hồn, đanh thép

ấy mik gửi sai nha

ham khaor

https://h.vn/hoi-dap/question/482450.html?pos=1332646

5 tháng 11 2018

Ngoài nội dung than thân, bài ca còn có nội dung tố cáo xã hội phong kiến bất công. Xã hội đó đã làm nên chuyện bể đầy, ao cạn làm cho thân cò thêm lận đận, thêm gầy mòn. Câu hỏi tu từ đã gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến bất công đó.

11 tháng 12 2021

        Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước... mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

          Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1.

Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

2.

Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3.

Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

       Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần... ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay... Thân em như... và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

       Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

       Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn... Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

 Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

        Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

      Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu:

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?!

       Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?

      Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

       Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

      Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.

       "Thương thay thân phận con tằm/ Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ" là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. "Thương thay lũ kiến li ti/ Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi " là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. "Thương thay hạc lánh đường mây/ Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi" là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. "Thương thay con cuốc giữa trời/ Dầu kêu ra máu có người nào nghe" là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.

        Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.



BRUH BO RA CA 1 BUOI TOI DE VIET MOI TAY V

12 tháng 12 2021
Mk cảm ơn nha