K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 12 2016

Bài làm

Truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn là câu chuyện kể về một chuyến trở về thăm lại quê nhà, thăm lại con người của tác giả sau bao nhiêu năm xa cách. Ông nhận ra nhiều sự đổi thay, cũng nhân ra những tư tưởng quá lạc hậu bám riết lấy con người và mảnh đất nơi đây. Truyện ngắn khép lại với câu triết lý vô cùng ý nghĩa khi ông nhắc đến con đường. Và có lẽ hình ảnh con đường là hình ảnh để lại trong tâm trí người đọc nhiều suy nghĩ và trăn trở nhất.

Câu chuyện khép lại và mở ra nhiều tư tưởng mới chỉ bằng câu nói “Trên đời làm gì có đường người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường mà Lỗ Tấn nhắc đến ở đây có mang ý nghĩa nào không, hay đơn giản chỉ là câu nói vu vơ của tác giả.

Thực ra con đường trong câu nói của tác giả vừa mang ý nghĩa thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho những suy nghĩ của tác giả.

18 tháng 12 2016

Ý nghĩa: đó là con đường hi vọng, con đường hạnh phúc, con đường rộng mở những huy hoàng, con đường của người nông dân, con đường của toàn xã hội mà chúng ta phải suy ngẫm.

6 tháng 5 2017

Hình ảnh con đường trong Cố hương của Lỗ Tấn với ý nghĩa tượng trưng cho một suy nghĩ mới, cách sống mới, qua đó thể hiện quan niệm của tác giả: Có những con đường xa, đường gần, con đường khổ đau, con đường trắc trở nhưng ta cứ dũng cảm đi thì mọi con đường đều trở nên tốt đẹp và hạnh phúc.

30 tháng 8 2017

Trong tiến trình phát triển của nền văn học Trung Quốc, ta không thể không nhắc đến một nhà văn đặc biệt với quan điểm “Văn chương là phương thuốc chữa căn bệnh tinh thần cho quốc dân” – Lỗ Tấn. Ông đã để lại cho đời biết bao công trình nghiên cứu cũng như các tác phẩm văn chương có giá trị, trong đó hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét và Bàng hoàng. Trong tập Gào thét, nổi bật nhất là tác phẩm Cố hương, ở đó hiện lên hình ảnh một cố hương của bao năm xa cách và những con người nơi ấy với bao nỗi buồn thương, hy vọng.

Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã tái hiện lại hình ảnh quê nhà sau 20 năm xa cách. Theo lẽ thường, sau thời gian cách xa quê hương như vậy nay đã trở về thì có lẽ phải là sự hồi hộp, vui mừng phấn khởi, mong ngóng ấy thế nhưng tâm trạng của tác giả lúc này có gì đó khác thường. Ngồi trên thuyền mà nhìn ra thấy “thôn xóm, tiêu điều, hiu hắt, nằm im lìm dưới nền trời vàng úa” vì thế “lòng tôi se lại”. Phải rồi! Không buồn, không đau lòng sao được khi quê hương nay đâu còn như trước. Và tác giả nghĩ “Tuy chưa tiến bộ hơn xưa những vị tất đến nỗi thê lương”. Bên cạnh đó, “lòng tôi se lại” còn vì một lẽ khác nữa. Đó là lần này về quê không phải là thăm quê, thăm nhà mà là để “vĩnh biệt ngôi nhà thân yêu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách làm ăn sinh sống”. Lòng đã buồn và lại cộng thêm cái ảm đạm, tiêu điều hiu hắt của quê hương thế nên lòng càng trĩu nặng và thảng thốt “làng cũ tôi đẹp hơn kia”. Trong quá khứ của tác giả, quê hương gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc. Năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông. Kẻ ra người vào tấp nập. Cố hương còn là nơi có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ với biết bao chuyện kỳ lạ của một cậu bé xuất thân từ vùng biển. Nhắc đến Nhuận Thổ là cả một kí ức về một miền quê thanh bình tuyệt đẹp hiện về: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”. Những kỉ niệm ấy theo mãi trong tâm trí của tác giả để rồi hằn sâu vào kí ức về một quê nhà thật đẹp, thật hạnh phúc. Như vậy ta thấy hình bóng quê nhà được tác giả gợi lên ở hai thời điểm quá khứ và hiện tại. Quê hương trong kí ức là những điều tươi đẹp còn trong hiện tại là sự tiêu điều, thê lương đầy xót xa.

Quê hương đã đổi thay, đâu còn như trước. Vậy người dân quê thì sao? Họ như thế nào, có thay đổi không? Người đầu tiên đón “tôi” đó là mẹ “Mẹ tôi mừng rỡ nhưng ẩn một nỗi buồn thầm kín”. Niềm vui của mẹ không trọn. Vui vì con đã về nhưng buồn vì cảnh nhà sắp phải dời đi, lìa xa quê nhà, rồi bỏ quê cha đất tổ. Việc li hương mẹ đã biết và đã chuẩn bị sắp đặt mọi thứ nhưng phải xa nơi chôn nhau cắt rốn không buồn sao được. Mặc dù vậy mẹ vẫn chu đáo, ân cần, hiền từ “mẹ bảo tôi ngồi xuống, nghỉ ngơi, đi thăm các nhà bà con”. Mẹ còn nói đến chuyện Nhuận Thổ và động lòng. Mẹ vẫn vậy, vẫn thương con và thương người. Nếu có khác thì là bây giờ trong lòng mẹ đang chất chứa nỗi buồn xa quê.

Chẳng thế mà khi nghe mẹ nhắc đến Nhuận Thổ lập tức ký ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”. Trong tâm trí “tôi” là hình ảnh cậu bé trạc mười một, mười hai tuổi, khuôn mặt bầu tròn trĩnh, nước da bánh mật, đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Cậu bé ấy mang đến bao câu chuyện kì thú mà tôi chưa bao giờ được nghe. Nào là chuyện bắt Tra vào ban đêm để trồng ruộng dưa đến kỳ thu hoạch, nào là sự kì thú của việc bẫy chim trên tuyết, rồi đến cả việc đi nhặt vỏ sò trên biển với đủ loại kỳ lạ. Những câu chuyện trẻ thơ ấy khiến cho tôi và Nhuận Thổ “thân nhau lắm”, gọi nhau là anh em. Chẳng thế mà khi hết vụ, Nhuận Thổ phải theo cha về mà chúng tôi đã khóc, buồn lắm, chỉ mong đến vụ sau để được gặp nhau. Trong ký ức thơ bé của tôi, Nhuận Thổ là một phần tươi đẹp của cố hương. Đó là Nhuận Thổ trong quá khứ. Còn Nhuận Thỏ trong hiện tại thì sao. Biết tin gia đình “tôi” chuyển nhà, Nhuận Thổ đến chơi. Sau bao nhiêu năm xa cách nay gặp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da bánh mật mạnh khỏe trước kia nay đã “vàng sạm” đi và điểm thêm trên đó là những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm’’. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”. Vì yêu quý mà cha Nhuận Thổ đội cho cậu chiếc mũ lông chiên tươm tất, đeo vòng bạc nhưng nay là chiếc mũ lông chiên “rách tươm”. Trên người anh chỉ mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ. Cái vẻ nhanh nhẹn đâu còn thay vào đó là dáng người “co ro cúm rúm”. Vì vất vả nên đôi bàn tay giờ đây “vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Ngoại hình, dáng vẻ của Nhuận Thổ khác xưa quá! Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ lẽ ra phải vui mừng khôn xiết thế nhưng đan xen vào đó có cả sự “thê lương”. Anh mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”. Hai tiếng “Bẩm ông” nghe sao nhói lòng, xa cách quá đỗi làm ‘’tôi như bị điếng người”. Trong tư tưởng của Nhuận Thổ, “tôi” không còn là người bạn thuở niên thiếu nữ, không phải là anh em nữa mà là bề trên, người trên, hạng trên. Cách xưng hô ấy mới đúng tôn ti trật tự xã hội phong kiến. Nhân vật tôi nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói cảm thấy nặng trĩu, chua xót trong lòng. Không chỉ vậy, có thể vì đói nghèo mà Nhuận Thổ còn giấu bát đĩa vào đống tro để ít sữa mang về như lời thím Hai Dương nói. Nhuận Thổ của trước kia đâu còn nữa, thay vào đó là một Nhuận Thổ khốn khổ, đói nghèo, bé nhỏ. Đẩy Nhuận Thổ vào tình cảnh như thế, đó là “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào...chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”. Như vậy, Nhuận Thổ là nạn nhân đau khổ của xã hội phong kiến đầy bất công, bóc lột người nông dân đến tận xương tủy.

Nhân vật thứ hai do hoàn cảnh mà thay đổi tâm tính, đó là Thím Hai Dương – nàng Tây Thi đậu phụ với dáng người compa trông đến lạ. Trước kia thím “hay bế tôi”. Nay gặp lại thím tôi thấy lạ bởi cái giọng “the thé, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, chân đứng chạng ra giống hệt cái compa, hai chân bé tí”. Tôi càng lạ và buồn hơn khi thím xin các đồ gỗ không được thì lẩm bẩm và khi ra về “tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi dắt vào lưng quần”. Có lần thím tự ý lấy cái” cẩu khí sát rồi chạy biến”. Người phụ nữ này cũng đã đổi khác có lẽ do họ nghèo quá, bần cùng quá mà sinh ra những “tàn nhẫn”. Thím hai Dương cũng là một nạn nhân nữa của xã hội phong kiến.

Sự thay đổi của quê nhà và của những con người nơi đây – Nhuận Thổ và thím Hai Dương đã làm tôi rất đau lòng, xót xa. Từ đây “tôi” đặt ra một niềm hi vọng về một xã hội tốt đẹp hơn, cuộc sống của người nông dân đỡ cực nhọc hơn. Niềm hi vọng ấy được đặt vào Bé Hoàng và Thủy Sinh “tôi muốn chúng không phải khốn khổ...chúng cần một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”. Niềm hi vọng ấy được tôi nâng lên thành một niềm tin “ Cũng giống như trên mặt đất làm gì có đường, kì thực người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

Như vậy có thể nói, Cố hương đã thuật lại chuyến về quê lần cuối của nhân vật tôi. Qua đó ta thấy được những cảm xúc rất thật, rất tinh tế của tôi trước sự đổi thay của làng quê và những con người nơi đây. Từ sự đổi thay đó, Lỗ Tấn muốn lên án, phê phán xã hội phong kiến nhiều bất công, ngang trái và đặt ra một con đường đi mới cho người nông dân.

20 tháng 12 2017

Qua sự so sánh của Lỗ Tấn có thể nhận ra hàm ý: Tuy hi vọng chưa biết thực hư thế nào, nếu cố gắng thực hiện thì có thể đạt được

30 tháng 5 2019

Chế độ phong kiến kéo dài cùng với sự xâm lược của các nước đế quốc đã biến Trung Quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thành một nuớc phong kiến nửa thuộc địa ốm yếu què quặt, lạc hậu. Sinh ra trong hoàn cảnh xã hội ấy, Lỗ Tấn tìm mọi cách giúp đất nước và nhân dân Trung Quốc thoát khỏi vũng bùn đen ấy. Ban đầu ông chọn nghề y nhưng rồi ông nhận thấy chữa bệnh về tinh thần cho những con người kia mới thực sự quan trọng. Do vậy mà ông chọn văn nghệ. “Cố hương” là một trong những thang thuốc quý hiếm chữa bệnh tinh thần cho những người dân như Nhuận Thổ, thím Hai Dương. Sau khi nói về sự thay đổi của quê hương, của con người ông đã nêu lên suy ngẫm đầy tính triết lý: “Trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

Sau hai mươi năm sống xa nhà, tác giả về thăm quê cũ giữa mùa đông lạnh giá. Ngồi trên thuyền, thấy khung cảnh ven sông tiêu điều, lòng ông dâng lên cảm xúc buồn thương khó tả. Đây là lần ông về quê để cùng người thân giải quyết chuyện bán nhà, đưa gia đình đến nơi khác làm ăn. Về đến nơi, ông được mẹ già chạy ra đón. Mọi người đang bận rộn thu dọn đồ đạc. Nghe mẹ nhắc tới Nhuận Thổ, tác giả lập tức nhớ lại những kỉ niệm thần tiên của thời thơ ấu. Nhuận Thổ là con trai người làm mướn cho gia đình tác giả cách đây hơn hai chục năm. Lúc ấy, Nhuận Thổ mới lên mười. Mỗi lần theo cha đến nhà cụ chủ, Nhuận Thổ thường kể cho “cậu ấm” nghe cách bẫy chim sẻ, cách bắt con tra hay ăn trộm dưa và nhiều chuyện khác, khiến cho “cậu ấm” say mê, thán phục. Cuộc sống vất vả lam lũ đã khiến Nhuận Thổ thành một người hoàn toàn khác. Hình dáng tiều tụy, thảm hại, mặt mũi ngơ ngác, đần độn. Không còn chút dấu vết nào của Nhuận Thổ khi xưa.

Mấy ngày sau, cả gia đình tác giả rời quê. Khi con thuyền đã xa làng, tác giả vẫn trĩu nặng nỗi suy tư về cảnh vật và con người ở Cố hương. Ông cố gắng tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi đáng buồn ấy và cầu mong cho con cháu của Nhuận Thổ sau này sẽ tìm ra cách sống mới để không còn phải khổ cực như ông cha nữa. Thông qua việc kể lại chuyến về quê lần cuối cùng và những suy ngẫm, rung cảm của bản thân trước sự thay đổi của cảnh vật và con người ở quê hương, tác giả đã kín đáo phê phán chế độ phong kiến hủ bại, đồng thời đề cập đến con đường giải phóng nông dân ra khỏi những ràng buộc vô hình nhưng nghiệt ngã của xã hội đương thời.

Hình tượng con đường trong câu nói của Lỗ Tấn cần phải được hiểu theo nghĩa bóng: là cách thức và phương hướng để con người giải quyết những vấn đề trong đời sống xã hội. Với Lỗ Tấn, đó là con đường cách mạng. Không có cách mạng thì không thể thay đổi được những suy nghĩ cổ hủ lạc hậu của Nhuận Thổ, của thím Hai Dương. Rồi đến đời Thủy Sinh lại tiếp tục sống trong những lễ giáo phong kiến đó. Không có cách mạng thì làm sao chữa được căn bệnh u mê lạc hậu của người dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Họ đã bị sự lạc hậu, căn bệnh tinh thần che đi lý trí và đôi mắt của họ, trong mắt họ thì người chiến sĩ cách mạng – chỉ là một tên giặc, một thằng khốn, thằng quỷ sứ, thằng điên. Họ vui mừng khi biết tin chiến sĩ cách mạng bị bắt và bị hành quyết như một tên giặc, và họ thản nhiên dùng máu của người thật ra chính là ân nhân của họ để tẩm chiếc bánh bao mà theo họ có thể chữa khỏi căn bệnh lao cho thằng bé (Thuốc). Họ còn là những người hiểu biết hạn hẹp và sự ngu dốt như AQ – một điển hình cho người dân Trung Quốc, đã xem “làm cách mạng tức là làm giặc”, và AQ muốn đi theo cách mạng chỉ vì nghĩ rằng làm cách mạng có thể khiến cho cụ Cử phải sợ, và “đầu hàng cách mạng” để được làm giặc (AQ chính truyện). Các tác phẩm của ông nhằm mục đích là “làm cho mấy người còn đang mơ mơ màng màng giật mình tỉnh dậy”, ông đã để tất cả công sức vào việc vạch trần căn nguyên của việc cùng đường tắt lối của xã hội Trung Quốc, tìm kiếm một con đường thoát cho xã hội, tìm kiếm một lực lượng giải phóng dân tộc.

Và theo ông: “Người ta đi mãi thì thành đường thôi ”. Câu này được hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất Đường là do con người tạo ra. Con người tạo ra đường đi để phục vụ chính mục đích của mình. Con đường cách mạng bây giờ là con đường duy nhất có thể phục vụ mục đích của người dân Trung Hoa. Thứ hai Không có con đường nào là duy nhất. Chỉ cần người ta đi nhiều thì sẽ thành đường. Rõ ràng hình tượng con đường ở đây mang đậm khuynh hướng cách mạng, thể hiện khát vọng đổi thay. Ông không muốn đời con, đời cháu mình lại tiếp tục sống trong cái xã hội kìm kẹp cả trong suy nghĩ khiến con người ta trở nên ngu dốt, bần tiện, xấu xa.

Như vậy với câu nói này, Lỗ Tấn quan niệm: trên đời không có gì là bất biến. Chỉ cần con người có khát vọng và dám thực hiện khát vọng ấy thì sẽ có khả năng làm thay đổi thế giới. Lỗ Tấn thật sự đã làm tốt vai trò một người thầy thuốc chữa bệnh tinh thần cho con người.

Câu nói của Lỗ Tấn còn thể hiện một quan niệm tích cực, mang tính cách mạng. Với Lỗ Tấn, lịch sử không dừng bước mà luôn vận động, biến đổi. Cái cũ lạc hậu thì phải thay thế cái mới tốt đẹp hơn. Vì thế khi nói câu này tâm trạng nhân vật tôi trong Cố Hương tràn đầy niềm tin và hi vọng.

Khi nói “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”, Lỗ Tấn đã đặt niềm tin hoàn toàn vào con người. Con người với khát vọng đẹp đẽ là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Con người tự mở ra những con đường trong hành trình tiến về phía trước của mình. Lịch sử, hiện tại và tương lai đã chứng minh niềm tin của ông hoàn toàn có cơ sở. Để đến một tương lai tươi sáng họ sẵn sàng mạo hiểm đi một con đường mới, tránh những lối mòn quen thuộc.

Con người sống có ý nghĩa phải là con người có khát vọng đổi thay, vượt lên những giới hạn có sẵn. Kêu gọi những con người trong cuộc đời phải là những người mở đường, tạo lập ra những con đường mới cho mình và toàn xã hội.

Câu nói không chỉ tiếp thêm sức mạnh, niềm tin mà còn phê phán những người có thái độ sống thụ động, ươn hèn, không có niềm tin, không có ước mơ, khát vọng. Họ chấp nhận đến muộn, về sau đi theo những lối mòn có sẵn. Họ sợ khó, sợ khổ, sợ mạo hiểm. Họ tạo cho mình một vỏ bọc an toàn và mãi mãi không bao giờ muốn thoát ra vỏ bọc ấy.

Là thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước chúng ra cần phải tạo lập lối sống năng động, trái tim tràn đầy ước mơ. Hãy thực hiện những ước mơ khát vọng của mình bằng chính trái tim tràn đầy nhiệt huyết và một sức trẻ dẻo dai: “ Đâu cần thanh niên có. Đâu khó có thanh niên”.

Bên cạnh viêc học tập làm giàu tri thức chúng ta cần rèn luyện cho mình một nghị lực để trở thành những người mở đường, góp phần đưa đất nước tiến lên.

7 tháng 1 2018

** Câu nói thứ nhất là "Trên đời này làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi" (Lỗ tấn).
Nghĩa đen: Mọi nẻo đường trên đời này không tự dưng mà có, mà chính là con người ta tạo nên thông qua một quá trình sống trên đời.
Nghĩa bóng:
- Mọi nguyên tắc, lễ giáo, hay những gì có mặt trên đời này là một sản phẩm của quá trình con người biến đổi xã hội, sản phẩm lịch sử - xã hội.
- Đâu có thứ gì sinh ra là đã có, con người nghĩ như vậy thì nó thành ra như vậy thôi. Ví dụ: trộm cướp đâu phải vốn dĩ nó xấu ngay từ khi có mặt, mà chính vì con người nhìn nó theo một hướng tiêu cực, xấu xa đi, .... thì nó trở thành một thứ xấu xa tồn tại trên đời naỳ.
- Thực ra, ý thức của con người về thế giới đã quy định thế giới này là như thế nào và phải là thế nào.
- Kích thích sự sáng tạo của con người, cứ sáng tạo đi, mở rộng tư duy đi rồi sẽ làm nên những điều mà chưa bao giờ có trong lịch sử, sẽ tạo ra một hướng đi mới trên đời.

** Câu thứ 2: "Trên mặt đât đã có đường rồi nhưng người ta đi lắm cũng không thành đường".
- Nghĩa đen: có một con đường từ sẵn đó, một hướng sẵn đó nhưng con người ta mãi cũng chẳng thẻ tìm kiếm được hướng đúng cho mình, hay con đường đang tồn tại ấy.
- Nghĩa bóng:
Nó xuất hiện sau này bởi vì, khi mà các chuẩn mực quy tắc xã hội đã có từ trước đó hình thành và cố định ở thời nay (ví dụ như những thành tựu văn minh, khoa học, thành quả của sự sáng tạo...), nhưng một điều đáng nói là con người ta chỉ cần hưởng thành quả đó để tiếp tục phát triển mà vẫn có những người không thể tìm ra con đường đi đúng đắn cho mình.
Cái đường thứ nhất là thành quả từ cha ông để lại và cái đường thứ 2 (trong câu) chính là con đường mà môĩ người sẽ phải đi (là lý tưởng, là kiến thức, là sáng tạo,...).
** So sánh 2 câu:
- 2 câu đều chỉ ra được những điều đúng đắn ứng với mỗi thời điểm ra đời của nó.
- Có thể thấy từ việc phân tích trên thì 2 câu nói ra đời với 2 hoàn cảnh khác nhau nên đã có những cách suy nghĩ và định hướng khác nhau. Nó không hề mâu thuẫn khi xét trong nhưũng thời điểm khác nhau mà câu nói đó ra đời. Tuy nhiên, việc đi theo 2 hướng nói khác nhau: Lỗ tấn hướng con nguơì tới việc sáng tạo ra con đường cho mình và cho xã hội, hay chỉ ra cái thực trạng đúng đắn của thế giới là con người sinh ra và cải tạo thế giới này, cố định ý nghĩ cho cuộc đời; thì câu nói thứ 2 lại đi theo hướng chỉ ra cái tiêu cực, mặt chưa tốt của những người chưa biết định hướng đi cho mình => cả 2 câu đều hướng con người tới sự sáng tạo con đường đi cho mình và nên biết con đường đi nào là đúng đắn (có mục tiêu sống).
** Liên hệ: sống và sáng tạo, sống có mục tiêu, tạo ra con đường đi cho bản thân mình.

Truyện ngắn “Cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn là một câu chuyện nhiều xúc động được tác giả viết nhân một chuyến về thăm lại quê hương sau hơn 20 năm xa cách. Khi trở lại nơi đã từng sinh ra ông, nơi chôn rau, cắt rốn tác giả vô cùng xúc động khi quê hương ông đã có vài thứ thay đổi dù không nhiều lắm. Nhưng ông cũng nhận ra rằng cái thay đổi đó chỉ là hình dáng bên ngoài mà thôi, còn bản chất những con người sống ở nơi đây thì không hề thay đổi mà thậm chí còn ngày càng nghèo nàn, lạc hậu, lạc hậu tới mức trở nên ấu trĩ, mụ mị cả người.

Truyện ngắn kết thúc bằng một câu nói vô cùng sâu sắc và để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc “Trên đời này làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

Con đường mà tác giả nói tới trong câu chuyện về quê hương của mình thực ra chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, nó như là một suy nghĩ mới, cách sống mới, như ngọn đuốc của nền văn minh nhằm khai sáng văn hóa, xóa đi thói ấu trĩ, mụ mị của những con người ở vùng quê lạc hậu.

Tác giả mong ước sẽ có một con đường như thế, con đường tư tưởng. Nó xuất hiện trong suy nghĩ, hy vọng của tác về tương lai mới, mang đến cuộc sống mới cho những đứa trẻ như bé Thủy Sinh những đứa trẻ ngây thơ, vô tội nhưng phải chịu một cuộc sống khốn khổ, lam lũ do những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ cứ bám víu lấy đời cha mẹ chúng, rồi đến đời bọn chúng, kiến cho cái nghèo cái khổ cứ bám lấy đeo đẳng không dứt.Trên đời này làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.Con đường là tác giả mơ ước chính là con đường của sự văn minh, hạnh phúc, muốn có con đường này thì chính những con người nơi đây phải tự xây dựng cho mình, phải thay đổi suy nghĩ của mình, tạo thành lối suy nghĩ mới rồi dần dần thành suy nghĩ chính thống ăn sâu bám rễ, giống như việc hình thành một con đường. Khi xưa trái đất chỉ toàn là rừng núi, hoang vu chưa có những con đường nhưng khi con người phát triển thì họ đã hình thành những con đường đi cho riêng mình sao cho thuận tiện, phục vụ lợi ích sinh hoạt giao lưu, thông thường của con người.

“Trên đời vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Ông đã khẳng định một chân lý rằng cái gì cũng có thể làm được, có thể thay đổi hình thành chỉ cần con người ta có ý chí muốn thay đổi, muốn phát triển, thì nhất định sẽ thành công.

Câu nói này cũng khẳng định lòng tin của tác giả vào một sự đổi mới nào đó sẽ đến với quê hương của ông. Lỗ Tấn tin tưởng rằng con đường văn hóa, văn minh con đường tri thức hạnh phúc đó sẽ xuất hiện, để những người dân nơi quê hương của ông thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, u mê. Chính sự nghèo nàn, u mê đã khiến cho những người dân quê hương ông trở nên xấu xí, tham lam như hình ảnh nàng “Tây Thi đậu phụ” mà tác giả miêu tả. Một người phụ nữ tham lam, tay nhanh có tính tắt mắt, tham lam, thường hay đồ của nhà người khác chạy về nhà mình mà không biết ngại như việc bà này giật lấy đôi tất mà mẹ tác giả dắt ở cạp quần chạy về nhà, hay vài ba cái chén, đôi đũa được bà ta thì thấy trong đống tro rồi cũng tiện tay mang về nhà…Sự nghèo khó, lạc hậu đã khiến cho hình ảnh người đàn bà này trở nên vô cùng tham lam, xấu tính.

Hình ảnh người bạn thân thời thơ ấu của tác giả như Nhuận Thổ cũng vậy, một cậu bé đã từng vô cùng thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát nhưng nay thì lụ khụ như ông già, con cái thì nheo nhóc, đẻ nhiều mà không nuôi được chúng nó cho tử tế, nên đã nghèo khổ lại càng nghèo khổ hơn.

Hình ảnh con đường mà tác giả nhắc tới cuối câu chuyện chỉ là một hình ảnh thoáng qua nhưng nó lại có vô vàn ý nghĩa. Nó mở ra một chân trời mới cho những con người ở vùng quê nghèo, lạc hậu và cũng để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ khó quên

12 tháng 3 2019

Chọn đáp án: B.

30 tháng 1 2016

Lỗ Tấn (1881 - 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện cố hương là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình quê vơi đầy. Nó ghi lại một cách chân thực cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng.

Các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hai Dương - là những con người của quê hương, gợi ra bao nỗi buồn vui về nơi chôn nhau cắt rốn sâu nặng nghĩa tình.

Sau hơn 20 năm xa cách !tôi về thăm quê, phải vượt qua 2000 dặm giữa một mùa đông lạnh giá. Lòng "tôi" bồi hồi không kể xiết. Gió lạnh vi vu thổi vào khoang thuyền. Gần về đến làng, trời càng u ám, xóm thôn xa dần, thấp thoáng tiêu điều, hoang vắng... lòng “tôi” se lại. về quê thì phải vui sao lại buồn? “Tôi” tự hỏi có phải đây là làng cũ thân yêu trong ký ức nữa không?

Chuyến về thăm quê này rất đặc biệt, về để bán nhà, giao nhà lại cho chủ mới. Về để từ giã ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình "chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Sao không buồn được, vì sau 20 năm đi xa, lần này , "tôi” trở về là để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu đem gịu dinh đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống
Quê hương thường gắn liền với phần mộ tổ tiên ông hà. Trong Cố hương không thấy nói đến. Tác giả chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ khoảng chừng
30 năm về trước. Một tình bạn đẹp tuổi thư độ lên mười với Nhuận Thổ con trai của một người làm thuê cho gia đình "tôi". Nhờ Nhuận Thổ mà "tôi" được biết bao chuyện kỳ lạ: cách bẫy chim trên tuyết, con “tra" lông, da trơn như mỡ biết ăn dưa; bên bờ .biển quê hương có nhiều vỏ sò đẹp và lạ: sò "mặt quỷ" và sò "tay phật”. Nhờ Nhuận Thổ mà tôi cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên: "Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn

Quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc... năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông...
Quê hương trong ký ức bao giờ cũng cảm động. Lỗ Tân đã nói về hình ảnh quê hương trong hiện tại và trong quá khứ, lúc ở trên đường trở về, lúc gặp lại bạn cũ, người xưa. Có niềm vui nỗi buồn, 30 năm đã trôi qua, nhưng không bao giờ có thể quên được quê hương và tuổi thơ.

Mẹ đã già. “Tôi” đã trưởng thành, đi làm ăn xa, lưu lạc 20 năm trời nay mới về thăm quê, thăm mẹ. Lâu nay chỉ "gặp mẹ” và hỏi thăm mẹ qua những cánh thư. Con vừa bước vào nhà, mẹ “đã chạy ra đón”. Mẹ già “rất mừng rỡ” gặp lại con trai sau những năm dài xa cách, thế nhưng “nét mặt vẫn ẩn nỗi buồn thầm kín". Chắc là mẹ buồn vì thương nhớ người đã khuất, mẹ buồn vì cảnh nhà sa sút, phải bán nhà, theo con trai đến nơi đất khách quê người? Mẹ vẫn hiền hậu, săn sóc ,"tôi” như ngày “tôi" còn thơ bé: "Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uổng trù...".

Mẹ nói với con trai chuyện dọn nhà... Mẹ vẫn hiền từ như xưa: "Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bù con một chút rồi mẹ con mình lên đường". Nhắc đến Nhuận Thổ... “Mẹ tôi" động lòng. Gặp 2 bố con Nhuận Thổ, mẹ ân cần vồn vã. Mẹ thở than cho cảnh nhà anh ta, mẹ bàn với “tôi”: “Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy!". Thương con cháu và thương người đó là hình ảnh người mẹ trong Cố hương.

Có một nhà thơ trẻ Việt Nam đã viết: “Quê hương là cầu tre nhỏ - Mẹ về nón lá nghiêng che”. Đọc cố hương của Lỗ Tấn, nếu ai đó không hiểu được người mẹ thì làm sao cảm nhận được hình ảnh quê hương thân yêu. Bởi lẽ mẹ là quê hương, quê hương là mẹ! Tình yêu quê hương luôn luôn gắn liền thiết tha với người mẹ hiền mà ta yêu quý.

Nhuận Thổ trước hết là tình bạn tuổi thơ. Ba mươi năm trước, "tôi" và Nhuận Thổ đã sống với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời “tôi"
không thể nào quên được. Hình ảnh hắn thuở lên 10, lần đầu gặp tôi: “Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng... Hắn “bẽn lẽn" với mọi người, nhưng "không bẽn lẽn” với chỉ riêng tôi. Hắn nói lên tỉnh, hắn được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như "tôi" nghe hắn nói chuyện bẫy chim sẻ, chuyện cầm đinh ba đâm con “tra" khi đi canh dưa, chuyện vỏ sò, vỏ ốc, v.v... là những chuyện lí thú, kỳ lạ. Ba mươi năm rồi, "tôi” nhớ đến Nhuận Thổ là nhớ đến gói quà hắn gửi cho tôi: một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp.

Không cổ tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn tuổi thơ làm cho tình yêu quê hương mãi mãi tươi thắm. Đúng như Lỗ Tân đã viết:

"Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”. Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh quê hương, là “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu". Nhuận Thổ là một phần rất nhỏ của cố hương. là tình yêu quê hương.

Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, nỗi buồn VC quê hương. Sau 30 năm xa cách nay gặp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da “vàng xạm”, những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm’’. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm", mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ! Người "co ro cúm rúm”, đôi bàn tay “vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Thời gian đã tàn phá một con người về mặt ngoại hình. Sự nghèo khổ và vất vả làm tàn tạ một con người vốn cường tráng và dẻo dai. Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương” mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”. Lễ giáo và tôn ti trật tự của xã hội phong kiến đã tạo nên giữa đôi bạn "một bức tường khá dày ngăn cách”. ''Tôi” như bị “điếng người" khi nghe anh ta nói. Nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói "tôi" nặng trĩu trong lòng “trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá ” vô hồn và vô cảm.

Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy: “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào...", “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.

Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của “tôi”, thông qua những rung cảm của "tôi” trước sự thay đổi, tàn tạ ghê gớm của làng quê, đặc biệt là Nhuận Thổ, tác giả đã lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới.

Nói đến con người quê hương trong cố hương không thể nào không nhắc tới hình ảnh chị Hai Dương - "Tây Thi đậu phụ", ngày xưa “phấn son” nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một "bỉ vỏ" trơ tráo, lúc thì ăn cướp đôi tất tay, lúc thì lấy cái “cầu khí sút” rồi chạy biến. Cũng không thể không nghĩ tới cháu Hoàng và ỉ hủy Sinh, con trai thứ năm của Nhuận Thổ. Trẻ con xưa nay vẫn hồn nhiên và đáng yêu. Nghĩ đến những con người quê hương, “tôi" mong muốn những em bé quê hương sẽ không còn “phải khốn khổ và tàn nhẫn... ”, mong mỏi chúng nó được sống “một cuộc đời mù chúng tôi chưa từng được sống".

Phần cuối truyện cố hương tác giả viết một câu văn rất lạ mà hay. Sau khi ông nói đến mọi thứ “tượng gỗ" và “sùng bái tượng gỗ”, nói đến mong ước "gần gũi” và “xa vời", nói đến “thực" và “hư” trong “hy vọng", rồi ông hạ bút. Đó là suy ngẫm của “tôi”:

“Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Có con đường mưu sinh phải xa quê. Có con đường tình nghĩa, không quản xa xôi, cách trở đã về thăm lại quê. Có con đường khổ ải. Có con đường hạnh phúc. Con đường gần, con đường xa, con đường hi vọng đi lên phía trước. Có con đường mòn... Cũng có chuyện phá lối mở đường. Con đường đến với mỗi người là con đường sô’ phận. Con (Mins; của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. Phải chăng đó là ý tưởng sâu sắc về hình tượng con đường trong cổ hương.

Ca dao có câu:

Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
Bể dâu biến đổi biết đâu là nhà.

Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, tôi bâng khuâng mãi về tiếng hát ấy lừng vang vọng khắp miền Trung thân yêu của quê mẹ...

 

4 tháng 1 2021

Anh tham khảo

Truyện ngắn “Cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn là một câu chuyện nhiều xúc động được tác giả viết nhân một chuyến về thăm lại quê hương sau hơn 20 năm xa cách. Khi trở lại nơi đã từng sinh ra ông, nơi chôn rau, cắt rốn tác giả vô cùng xúc động khi quê hương ông đã có vài thứ thay đổi dù không nhiều lắm. Nhưng ông cũng nhận ra rằng cái thay đổi đó chỉ là hình dáng bên ngoài mà thôi, còn bản chất những con người sống ở nơi đây thì không hề thay đổi mà thậm chí còn ngày càng nghèo nàn, lạc hậu, lạc hậu tới mức trở nên ấu trĩ, mụ mị cả người.

Truyện ngắn kết thúc bằng một câu nói vô cùng sâu sắc và để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc “Trên đời này làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.

Con đường mà tác giả nói tới trong câu chuyện về quê hương của mình thực ra chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, nó như là một suy nghĩ mới, cách sống mới, như ngọn đuốc của nền văn minh nhằm khai sáng văn hóa, xóa đi thói ấu trĩ, mụ mị của những con người ở vùng quê lạc hậu.

Tác giả mong ước sẽ có một con đường như thế, con đường tư tưởng. Nó xuất hiện trong suy nghĩ, hy vọng của tác về tương lai mới, mang đến cuộc sống mới cho những đứa trẻ như bé Thủy Sinh những đứa trẻ ngây thơ, vô tội nhưng phải chịu một cuộc sống khốn khổ, lam lũ do những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ cứ bám víu lấy đời cha mẹ chúng, rồi đến đời bọn chúng, kiến cho cái nghèo cái khổ cứ bám lấy đeo đẳng không dứt.Trên đời này làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.Con đường là tác giả mơ ước chính là con đường của sự văn minh, hạnh phúc, muốn có con đường này thì chính những con người nơi đây phải tự xây dựng cho mình, phải thay đổi suy nghĩ của mình, tạo thành lối suy nghĩ mới rồi dần dần thành suy nghĩ chính thống ăn sâu bám rễ, giống như việc hình thành một con đường. Khi xưa trái đất chỉ toàn là rừng núi, hoang vu chưa có những con đường nhưng khi con người phát triển thì họ đã hình thành những con đường đi cho riêng mình sao cho thuận tiện, phục vụ lợi ích sinh hoạt giao lưu, thông thường của con người.

“Trên đời vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Ông đã khẳng định một chân lý rằng cái gì cũng có thể làm được, có thể thay đổi hình thành chỉ cần con người ta có ý chí muốn thay đổi, muốn phát triển, thì nhất định sẽ thành công.

Câu nói này cũng khẳng định lòng tin của tác giả vào một sự đổi mới nào đó sẽ đến với quê hương của ông. Lỗ Tấn tin tưởng rằng con đường văn hóa, văn minh con đường tri thức hạnh phúc đó sẽ xuất hiện, để những người dân nơi quê hương của ông thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, u mê. Chính sự nghèo nàn, u mê đã khiến cho những người dân quê hương ông trở nên xấu xí, tham lam như hình ảnh nàng “Tây Thi đậu phụ” mà tác giả miêu tả. Một người phụ nữ tham lam, tay nhanh có tính tắt mắt, tham lam, thường hay đồ của nhà người khác chạy về nhà mình mà không biết ngại như việc bà này giật lấy đôi tất mà mẹ tác giả dắt ở cạp quần chạy về nhà, hay vài ba cái chén, đôi đũa được bà ta thì thấy trong đống tro rồi cũng tiện tay mang về nhà…Sự nghèo khó, lạc hậu đã khiến cho hình ảnh người đàn bà này trở nên vô cùng tham lam, xấu tính.

Hình ảnh người bạn thân thời thơ ấu của tác giả như Nhuận Thổ cũng vậy, một cậu bé đã từng vô cùng thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát nhưng nay thì lụ khụ như ông già, con cái thì nheo nhóc, đẻ nhiều mà không nuôi được chúng nó cho tử tế, nên đã nghèo khổ lại càng nghèo khổ hơn.

Hình ảnh con đường mà tác giả nhắc tới cuối câu chuyện chỉ là một hình ảnh thoáng qua nhưng nó lại có vô vàn ý nghĩa. Nó mở ra một chân trời mới cho những con người ở vùng quê nghèo, lạc hậu và cũng để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ khó quên

4 tháng 1 2021

Đoạn văn mà có sai đề không vậy, tham khảo tham khảo suốt ngày chỉ bt cóp thôi ak

Tôi chả cần tự lm nhưng hướng dẫn cách lm thôi